Thứ Năm, 27 tháng 2, 2014

Tài liệu Đề tài “Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam - Thực trạng và giải pháp phát triển” docx

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM - QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Ι.KHÁI NIỆM VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.Khái niệm đầu tư nước ngoài nói chung
Khái niệm “đầu tư nước ngoài” lần đầu tiên được đề cập đến trong các giáo trình
tư pháp và kinh tế quốc tế, trước tiên là ở Pháp năm 1955, sau đó được sử dụng
trong các cuộc hội thảo bàn về hợp tác kinh tế thế giới và chính thức đi vào các
hiệp định, các bộ luật về đầu tư. Tuy nhiên do những đặc điểm riêng phức tạp và
do sự vận động phong phú của thực tiễn mà khái niệm này không ngừng được bổ
sung, chỉnh lý cho sát với thực tế hơn.
Cùng với quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá đời sống kinh tế, đến nay đầu tư
trực tiếp nước ngoài không còn là vấn đề mới mẻ trên thế giới. Khái niệm về FDI
đều được ghi nhận trong luật đầu tư của các nước. Mặc dù không hoàn toàn
giống nhau bởi có sự khác biệt về việc sử dụng câu từ hay ngữ pháp, song về mặt
bản chất thì khái niệm FDI ở luật của các nước là như nhau do chúng đều xuất
phát từ khái niệm đầu tư quốc tế.
Tại Hội thảo của Đại hội Hiệp hội Pháp luật quốc tế Henxky 1966, người ta đã
cố gắng đưa ra một khái niệm chung nhất về đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm
phân biệt với các khoản kinh tế khác nhận được từ bên ngoài. Theo đó, “Đầu tư
nước ngoài là vận động tư bản từ nước người đầu tư sang nước người sử dụng
đầu tư mà không có hạch toán nhanh chóng”. Sau đó, qua thảo luận Hiệp hội đã
đưa ra một khái niệm dưới dạng tổng quát như sau: “Đầu tư nước ngoài là sự vận
động tư bản từ nước người đầu tư sang nước người sử dụng đầu tư với mục đích
thành lập ở đây một xí nghiệp sản xuất hay dịch vụ nào đó”. Với khái niệm này,
việc đầu tư vào một nước nhất thiết phải gắn liền với việc thành lập một xí
nghiệp hay một cơ sở sản xuất, dịch vụ tại nước nhận đầu tư, do đó đã loại trừ
một số hình thức đầu tư khác không thành lập ra xí nghiệp hay cơ sở sản xuất
(như cho vay tiền của ngân hàng, tài trợ cho chương trình hay cho dự án…). Đây
chính là điểm hạn chế của khái niệm này so với yêu cầu hợp tác kinh tế trong
thời đại hiện nay.
Khái niệm về đầu tư nước ngoài được các nước hiểu và vận dụng khác nhau. Tại
các nước tư bản phát triển, đầu tư nước ngoài là việc giao vật có giá trị kinh tế
của nước này sang nước khác nhằm thu đuợc lợi nhuận, bao gồm cả quyền cầm
cố và quyền thu hoa lợi, quyền tham gia các hội cổ phần,quyền đối với nhãn hiệu
thương phẩm và tên xí nghiệp. Như vậy, quan niệm về đầu tư nước ngoài ở đây
rất rộng rãi, chỉ là quá trình chuyển tiền vốn từ nước này sang nước khác với
mục đích thu lợi nhuận, theo nguyên tắc lợi nhuận thu được phải cao hơn lợi
nhuận thu được trong nước và cao hơn lãi suất gửi ngân hàng, nếu kinh tế của
các nước tư bản phát triển là tương đối ổn định, thị trường đã được khai thác tối
đa và có hiện tượng tương đối thừa tư bản, do đó việc đầu tư ra nước ngoài là
cực kỳ cần thiết để lợi dụng nhân công rẻ, nguồn nguyên liệu dồi dào và chiếm
lĩnh thị trường xuất nhập khẩu. Do đó quan niệm rộng rãi về đầu tư nước ngoài
tồn tại như một tất yếu.
Các nước đang phát triển lại sử dụng khái niệm đầu tư nước ngoài với nội dung
là đầu tư trực tiếp như việc đưa bất động sản, vốn, thiết bị vào xây dựng, mở
rộng sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Như vậy, đầu tư nước ngoài tại các nước
đang phát triển chỉ được công nhận dưới hình thức đầu tư trực tiếp, loại trừ hình
thức đầu tư gián tiếp. Bởi vì đầu tư trực tiếp đem lại nguồn vốn, kỹ thuật hiện đại
thay thế cho kỹ thuật lạc hậu hiện có, tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao
động, nâng cao mức sống, tăng tích luỹ thu nhập quốc dân. Còn đầu tư gián tiếp
cũng đưa vốn vào, nhưng không có kế hoạch sử dụng vốn, cùng với khả năng
quản lý non kém và trình độ sản xuất kinh doanh lạc hậu của các nước đang phát
triển đã không đủ khả năng sử dụng vốn vay có hiệu quả, dẫn đến tình trạng
không trả được nợ. Với lý do đó, việc tăng cường sử dụng hình thức đầu tư trực
tiếp là phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của các nước đang phát triển. Chính
sách này đã và đang là hình thức phổ biến trong chính sách “mở cửa nền kinh
tế” của nhiều nước, đặc biệt là các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương, trong đó có Việt Nam.
Định nghĩa về đầu tư nước ngoài theo Hội thảo Henxinki như trên là quá ngắn
gọn nên không nêu được bản chất của đầu tư nước ngoài, tuy nhiên đã có một
khuynh hướng đúng đắn cho rằng không nên coi bất kỳ tiền, vốn nào đưa ra
nước ngoài đều là đầu tư (ví dụ như hình thức tín dụng quốc tế, viện trợ quốc tế
…)
Chuyên gia luật quốc tế Iumarxep (trong cuốn sự điều chỉnh pháp luật của đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại EC-Matxcơva, 1988) cho rằng, đầu tư nước ngoài khác
với những hành vi đầu tư thông thường (như đầu tư chứng khoán), nhằm mục
đích thu lợi nhuận hoặc tăng thu nhập dưới các hình thức hoa hồng, hoa lợi…
Định nghĩa về đầu tư nước ngoài còn gặp ở nhiều văn kiện pháp luật về đầu tư
hoặc các Hiệp định quốc tế về bảo hộ và thúc đẩy đầu tư. Chính sự định nghĩa
này đã tạo ra cơ sở pháp lý cho các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động của
mình. Tuy nhiên, sự phức tạp của quan hệ đầu tư và do vấn đề ngữ pháp hoặc
cách sử dụng từ mà thuật ngữ “đầu tư nước ngoài” trong các văn kiện pháp luật
của mỗi nước có khác nhau.
Ví dụ : Luật về đầu tư nước ngoài của Liên bang Nga ngày 4/7/1991 quy định :
Đầu tư nước ngoài là tất cả những hình thức giá trị tài sản hay giá trị tinh thần
của nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các đối tượng của hoạt động kinh doanh và
các hoạt động khác với mục đích thu lợi nhuận. Định nghĩa tương đối đầy đủ,
vạch rõ bản chất của vấn đề đầu tư là lợi nhuận, tuy nhiên nếu đầu tư nước ngoài
được xem xét chỉ là “tài sản” được sử dụng với mục đích đem lại lợi nhuận thì
khái niệm này bị giới hạn. Trong Luật của Ucraina về đầu tư nước ngoài ngày
13/3/1992, thuật ngữ “đầu tư nước ngoài” được đề cập đến với phạm vi rộng hơn
: “Đầu tư nước ngoài là tất cả các hình thức giá trị do nhà đầu tư nước ngoài đầu
tư vào các đối tượng của hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác với mục
đích thu lợi nhuận hoặc các hiệu quả xã hội”. Chính hình thức “hiệu quả xã hội”
đã mở rộng phạm vi hoạt động của luật đầu tư đối với các kiểu, các hình thức
khác của luật đầu tư nước ngoài.
Như vậy dù nhìn dưới góc độ nào thì FDI cũng đều là hoạt động kinh doanh dựa
trên cơ sở di chuyển tư bản giữa các quốc gia, chủ yếu do các pháp nhân và thể
nhân thực hiện, theo những hình thức nhất định, trong đó chủ đầu tư FDI tham
gia trực tiếp vào quá trình đầu tư.
2. Khái niệm về FDI theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành lần đầu vào ngày
26/12/1987, sửa đổi vào năm 1990,1992; sau đó được thay bằng "Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam " ban hành ngày 12/11/1996, đã được các nhà đầu tư
thế giới và khu vực đánh giá là một luật hấp dẫn, thông thoáng trong khu vực.
Ngày 9/6/2000 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lại được sửa đổi, bổ sung
lần thứ 4 "để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế quốc dân trên cơ sở khai thác và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước."
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 quy định rõ: " Đầu tư nước ngoài là
việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản
nào để tiến hành đầu tư theo qui định của luật này".
Như vậy theo luật đầu tư khái niệm đầu tư nước ngoài được hiểu như sau:
- Là hình thức đầu tư trực tiếp.
- Là việc bên ngoài trực tiếp đưa vốn và tài sản khác vào đầu tư tại Việt Nam.
Chủ đầu tư nước ngoài có thể là 1 tổ chức nhà nước, tổ chức tư nhân hay 1 tổ
chức quốc tế hoặc tự nhiên nhân nước ngoài.
Vốn đầu tư ở đây không chỉ bao gồm tư bản mà còn bao gồm cả các bí quyết kỹ
thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật (Điều 7 Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam năm 1996). Quy định này là nhằm mục đích tranh thủ được vốn kỹ
thuật hiện đại, kinh nghiệm và phương pháp quản lý tiên tiến, đào tạo đội ngũ
quản lý và công nhân có trình độ cao, góp phần nâng cao đời sống kinh tế, đưa
Việt Nam hoà nhập với khu vực và thế giới. Việc sử dụng vốn đầu tư nước ngoài
vào một quốc gia thường dẫn đến việc thành lập ở nước tiếp nhận đầu tư một cơ
sở sản xuất. Nhưng theo luật Việt Nam thì hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
không nhất thiết phải như vậy mà có thể tồn tại trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh
doanh.
Như vậy, khái niệm đầutư nước ngoài đã trải qua một quá trình phát triển biện
chứng hết sức chặt chẽ. Từ quy định đầu tư nước ngoài là việc đưa vốn và tài sản
nhất định vào Việt Nam đến quy định về đối tượng được đầu tư và quy định về
hình thức đầu tư, thể hiện chủ trương của Nhà nước Việt Nam là mở rộng và thu
hút vốn đầu tư của nhiều nước trên thế giới, làm đòn bẩy mạnh mẽ để đưa nước
ta phát triển ngang tầm với sự phát triển chung của toàn thế giơí.
3. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với việc phát triển kinh tế quốc dân
Xuất phát từ những nhu cầu về vốn, về khoa học kỹ thuật và công nghệ của nước
ta còn thiếu chưa đủ sức khai thác những tiềm năng về tài nguyên và sức lao
động của mình. Do vậy Nhà nước chủ trương mở cửa cho nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam. Hiện nay vẫn còn nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau về đầu
tư nước ngoài ở nước ta trong gần 15 năm qua, nhưng có một thực tế không thể
phủ nhận đó là ảnh hưởng tích cực của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế
nước ta ngày càng rõ nét.
3.1. Góp phần tăng ngân sách xã hội
Đầu tư nước ngoài bước đầu đã góp phần đáng kể trong đầu tư vốn của toàn xã
hội, trong tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đóng góp vào ngân sách,
kim ngạch xuất khẩu và giải quyết việc làm. Nhiều công trình quan trọng đã đi
vào hoạt động, nhiều công nghệ khá hiện đại đang được chuyển giao, đã tạo ra
năng lực mới cho nền kinh tế. Cho tới nay các công ty nước ngoài đã tham gia
đầu tư vào nhiều ngành công nghiệp quan trọng của Việt Nam như dầu khí, xi
măng, sắt thép, điện tử
3.2. Góp phần nâng cao năng lực các ngành công nghiệp
Cùng với việc nâng cao năng lực sản xuất của các ngành công nghiệp, hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần hình thành một số ngành công nghiệp
mới có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế quốc dân như: Công nghiệp dầu khí,
công nghiệp sản xuất - lắp ráp ô tô, xe máy Nhiều dự án đầu tư nước ngoài đã
tạo ra các sản phẩm xuất khẩu mới góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu cho
Việt Nam. Trong năm 2000, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài khoảng 3.300 triệu USD so với kim ngạch xuất khẩu là 7 tỷ USD (chiếm
45%). Về nghĩa vụ tài chính các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng
góp vào ngân sách Nhà nước 300 triệu USD (chưa kể liên doanh dầu khí Việt Xô
Petro).
3.3. Hội nhập quốc tế
Bằng việc hợp tác với nước ngoài, Việt Nam đã tiếp nhận được một số kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến trong một số ngành kinh tế như thông tin viễn thông, sản xuất
- lắp ráp ô tô, xe máy, hoá chất (dầu nhờn, sơn ). Ngoài ra Việt Nam cũng đã
tiếp nhận được một số phương pháp quản lý tiến bộ và một số kinh nghiệm về tổ
chức kinh doanh, sản xuất.
3.4. Giải quyết công ăn việc làm
Quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nền kinh tế cũng đã góp phần quan
trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đến giữa năm
1998, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tạo ra việc làm cho
khoảng 350.000 lao động là người Việt Nam. Trong số đó các doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài, thu hút 95.000 lao động, doanh nghiệp liên doanh với
thành phần kinh tế Nhà nước thu hút gần 165.000 người; doanh nghiệp liên
doanh với thành phần kinh tế tư nhân thu hút gần 16.000 người; doanh nghiệp
liên doanh với thành phần kinh tế hỗn hợp 15.000 người, các đơn vị hợp tác kinh
doanh gần 6.500 người. Bên cạnh đó khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
còn tạo ra việc làm gián tiếp cho hàng trăm nghìn người làm nghề xây dựng cơ
bản và dịch vụ
Trong những năm tới, cụ thể là từ nay đến năm 2003, để thực hiện mục tiêu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi tăng trưởng kinh tế 9% - 10% mỗi
năm, chúng ta cần khoảng 42 tỷ USD. Trong đó dự kiến phải tranh thủ khoảng
15 - 17 tỷ USD vốn FDI. Cũng theo ước tính sơ bộ với mục tiêu duy trì tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao, góp phần chống "nguy cơ tụt hậu", thì trong 10 năm đầu
của thế kỷ 21 đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư không dưới 300 tỷ USD. Dự kiến
những lĩnh vực chủ chốt có thể thu hút được nhiều vốn FDI là: Tìm kiếm, thăm
dò, khai thác dầu khí; xây dựng nhà máy lọc dầu; sản xuất xi măng; luyện cán
thép; điện tử, ô tô, xe máy, công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm
hạ tầng cơ sở, nông-lâm-ngư nghiệp
Những phân tích trên cho thấy, FDI không phải chỉ cần thiết đối với nền kinh tế
trong giai đoạn trước mắt, mà còn có vai trò quan trọng trong suốt quá trình công
nghiệp hoá đất nước. Vì vậy trong thời gian tới cần có những biện pháp, chính
sách để góp phần thu hút nhiều hơn và có hiệu quả hơn vốn FDI.
Π.QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1.Sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam
1.1. Điều lệ Đầu tư 77
Năm 1977 các nhà lãnh đạo cao nhất của Việt nam cho ban hành Điều lệ Đầu tư
nước ngoài ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam kèm theo Nghị định số
115/CP ngày 19-4-1977 của Chính phủ, gọi tắt là “Điều lệ đầu tư 77”
Tuy là văn bản pháp lý đầu tiên của Việt nam quy định về đầu tư nước ngoài
nhưng mối quan tâm về Điều lệ đầu tư 77 đã biến mất vào năm 1978, khi xảy ra
sự kiện Campuchia và tiếp theo là chiến tranh biên giới phía Bắc. Do sức ép từ
các thế lực thù địch, cánh cửa hợp tác kinh tế với hầu hết các nước tư bản phát
triển bị khép lại cùng với sự cắt đứt những khoản viện trợ phát triển chính thức
(ODA). Điều lệ đầu tư 77 trở thành một văn bản pháp lý không có đối tượng
điều chỉnh và không còn ý nghĩa nào khác ngoài việc là một tài liệu lưu trữ.
Dĩ nhiên Điều lệ đầu tư 77, do ra đời trong một điều kiện thiếu một hệ thống
quan điểm rõ ràng về đường lối tổng thể phát triển kinh tế, nên không tránh khỏi
những mặt hạn chế, kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng cho
dù đó là một văn bản pháp lý hoàn chỉnh hơn thì cũng khó có thể đi vào cuộc
sống, bởi vì đối với bất kỳ một quốc gia nào yếu tố quan trọng hàng đầu quyết
định khả năng thu hút đầu tư nước ngoài là tình hình chính trị đối ngoài và sự ổn
định an ninh chính trị trong nước. Các nhà đầu tư không thể mang tiền của vào
một nước chiến tranh hoặc đang nằm trong tình trạng “nửa chiến tranh” lại bị cô
lập, cấm vận bởi hầu hết các nước tư bản phát triển.
Cuối thập kỷ 70 xuất hiện một làn sóng mới khuyến khích đầu tư từ các nước tư
bản phát triển vào các nước xã hội chủ nghĩa trong sự cộng hưởng với nhu cầu
đổi mới và tổ chức lại các xí nghiệp quốc doanh xã hội chủ nghĩa bắt đầu bằng
việc CHND Trung Hoa ban hành Luật đầu tư nước ngoài ngày 08-07-1979,
CHND Mông Cổ và CHND Bungari 1980, Cuba 1982, CHDCND Triều Tiên
1984, Tiệp Khắc 1985, Liên Xô 1987 …
Tại Việt nam sau những năm tìm tòi và thử nghiệm, Đại hội VI Đảng Cộng sản
Việt nam đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường có định hướng XHCN. Chính sách đầu tư nước ngoài chính vì vậy
cũng buộc phải thay đổi nhằm “ra sức tranh thủ vốn, công nghệ và thị trường bên
ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại giành vị trí ngày càng có
ý nghĩa trong phân công lao động quốc tế”.
1.2. Luật Đầu tư nước ngoài 1987
Trong khung cảnh trong và ngoài nước như vậy, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
nam đã được Quốc hội thông qua ngày 29.12.1987. Qua thực tiễn áp dụng, để
phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước, tăng cường tính cạnh tranh
của các điều kiện khuyến khích đầu tư của nước ta so với nước khác trong khu
vực, để phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế và quyền lợi của các nhà đầu
tư nước ngoài, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung Luật đầu tư nước
ngoài ngày 30-06-1990, Luật sửa đổi bổ sung Luật đầu tư nước ngoài ngày 23-
12-1992.
Mặc dù vậy, Luật Đầu tư nước ngoài 1987 với hai lần sửa đổi, bổ sung vẫn tồn
tại những hạn chế nhất định trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Do vậy Luật Đầu
tư nước ngoài 1996 đã được Quốc hội thông qua với mục tiêu hoàn thiện hành
lang pháp lý và cải thiện môi trường đầu tư để thu hút vốn đầu tư trực tiếp của
nước ngoài với số lượng và chất lượng cao hơn, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, đổi mới công nghệ, gia tăng năng lực sản xuất, sử
dụng hiệu quả các nguồn lực, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội của đất nước, tăng cường sự hoà nhập kinh tế của nước ta với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
1.3. Luật Đầu tư nước ngoài 1996
Luật đầu tư nước ngoài 1996 đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc cải thiện
môi trường đầu tư nói chung và môi trường pháp luật đầu tư nói riêng. Với
những quy định cần tiếp tục chi tiết hoá, Luật đã thực sự hưởng ứng và thể chế
hoá đường lối, chủ trương của Đại hội đại biểu toàn quốc VII, khẳng định nhất
quán chính sách đổi mới liên tục và toàn diện tư duy kinh tế, góp phần cải thiện
bộ mặt đất nước, cải thiện đời sống xã hội nói chung.
2.Các loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam.
Có 6 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh:
Là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên (gọi tắt là các bên hợp doanh) để
cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hợp đồng kinh doanh ở Việt Nam trên cơ sở
quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không
thành lập pháp nhân mới.
Xí nghiệp liên doanh:
Xí nghiệp liên doanh là xí nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp
đồng kinh doanh giữa bên hoặc các bên Việt Nam với bên hoặc các bên nước
ngoài, hoặc trên cơ sở Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước
ngoài, nhằm hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam.
Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài:
Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài là xí nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của các tổ
chức kinh tế, cá nhân nước ngoài, do họ thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và
chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh.
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (B.O.T.):
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) là văn bản ký kết giữa
chủ đầu tư nước ngoài (cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài) với cơ quan Nhà nước
Việt Nam có thẩm quyền để xây dựng các công trình hạ tầng, tiến hành khai thác
và kinh doanh trong một thời hạn nhất định và khi hết thời hạn thì chuyển giao
không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO):
Được thực hiện trên cơ sở hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, là văn
bản được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt nam và nhà đầu
tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong,
nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt nam, Chính
phủ Việt nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để
thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
Hợp đồng đầu tư trong các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao,
trong đó:
+ Khu chế xuất là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên
sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và
hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do
Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
+ Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật
cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên
cứu- triển khai khoa học – công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có ranh
giới địa lý xác định; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành
lập.
Các hình thức và phương thức trên đã được các nhà đầu tư nước ngoài chấp
nhận, vận dụng. Mỗi hình thức và phương thức đầu tư đều có mặt mạnh và mặt
hạn chế của nó, vì vậy Nhà nước Việt nam đang dần dần đa dạng các loại hình
đầu tư thông qua chính sách và pháp luật, nhằm đồng thời giải quyết nhiều vấn
đề của mục tiêu hợp tác như kết hợp lợi ích của bên đầu tư và bên nhận đầu tư,
kết hợp mục tiêu thu hút vốn và điều chỉnh cơ cấu FDI phù hợp với cơ cấu chung
của nền kinh tế và quy hoạch phát triển lực lượng sản xuất cả nước, từng ngành,
từng địa phương.
3.Sơ lược tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt nam kể từ khi ban hành Luật
Đầu tư nước ngoài cho đến nay
Hoạt động FDI ngày càng được nhiều nước thừa nhận là một nhân tố quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Ở Việt Nam, kể từ khi luật đầu tư nước
ngoài được ban hành và thực hiện, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được
Đảng và Nhà nước ta khẳng định là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần thúc đẩy sự phát triển các
nguồn lực trong nước.
3.1. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài đóng góp cho ngân sách Nhà nước
Cũng giống như nhiều quốc gia đang phát triển khác, để đạt được tốc độ tăng
trưởng cao và ổn định, Việt Nam cần phải có một khối lượng vốn rất lớn. Dẫu
rằng vốn trong nước là chính, có vai trò quyết định song khả năng huy động các
nguồn vốn này rất khó khăn. Bởi vì, nguồn vốn ngân sách còn hạn chế; nguồn
vốn đầu tư của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cũng hạn chế do
nhiều doanh nghiệp đang bị thua lỗ, tích luỹ thấp và cũng đang trông đợi vào vốn
ngân sách cấp (doanh nghiệp quốc doanh) hoặc vốn đầu tư nước ngoài; nguồn
vốn nhàn rỗi của dân cư rất khó xác định vì tâm lý người dân còn thiếu tin tưởng
vào hệ thống tài chính ngân hàng, thiên về đầu tư tích trữ vàng, đôla, bất động
sản. Như vậy để huy động được lượng vốn cần thiết, Việt Nam cần phải chú
trọng thu hút các nguồn vốn nước ngoài.
Trong những năm vừa qua, các nguồn vốn nước ngoài ở Việt nam chủ yếu gồm:
FDI, ODA, tín dụng thương mại và các khoản vay nợ nước ngoài. Trong số đó,
nguồn FDI là quan trọng nhất, tạo ra một khu vực kinh tế có trình độ thiết bị kỹ
thuật công nghệ khá.
Tính đến năm 2002, Việt nam đã có 4500 dự án được cấp giấy phép với tổng
mức vốn đăng ký đạt trên 50 tỷ USD trừ các dự án giải thể trước thời hạn hoặc
đã hết hạn hoạt động, hiện còn 3669 dự án với tổng vốn đầu tư trên 39,2 tỷ USD,
vốn pháp định trên 18 tỷ USD. Số vốn đã đưa vào thực hiện là gần 21 tỷ USD
bao gồm các hình thức đầu tư BOT, hợp đồng hợp tác kinh doanh, 100% vốn
nước ngoài, liên doanh, chưa kể đến có nhiều hạn chế làm giảm vốn đầu tư nước
ngoài như cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực năm 1997-1998 và
sự kiện 11/9/2001.
3.2. Tiến trình thực hiện các dự án
Trong số đó gần 2000 dự án đang triển khai hoạt động kinh doanh, 980 dự án
đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản và làm các thủ tục hành chính và gần 700 dự
án chưa triển khai do nhiều nguyên nhân, 33 dự án hết hạn với tổng số vốn đầu t-
ư 0,3 tỷ USD và 703 dự án giải thể với tổng số vốn khoảng 9 tỷ USD. Khoảng
một nửa tổng số vốn đầu tư được cấp trong giai đoạn 1996-2000 với 1648 dự án
được cấp phép có tổng số vốn đầu tư đạt 20,7 tỷ USD và trên 300 dự án tăng vốn
3,9 tỷ USD. Trong số các dự án đầu tư được cấp giấy phép, tính đến cuối năm
2002 đã thực hiện được khoảng 21 tỷ USD, chiếm 45% tổng số vốn của các dự
án.
BẢNG SỐ 1: ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI THEO HÌNH THỨC
ĐẦU TƯ TỪ 1988-2002
(Chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Đơn vị tính: đồng
Hình thức đầu tư Số
dự án
Tổng vốn
đầu tư
Vốn pháp
định
Vốn thực hiện
BOT 6 1.332.975.000 411.385.000 216.941.200
HĐ hợp tác Kinh
doanh
157 3.870.280.224 3.300.263.330 3.761.554.376
100% vốn nước
ngoài
2.417 14.202.336.482 6.298.792.863 6.725.903.405
Liên doanh 1.089 19.699.154.173 8.013.237.517 10.034.903.81
4
Tổng số 3669 39.104.745.879 18.023.678.71
0
20.739.302.79
5
(Trích dẫn: Thời báo Kinh tế Việt nam, số 17, ngày 29/1/2003)
Mặc dù Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1988, nhưng phải đến năm
1991 đầu tư nước ngoài vào Việt nam mới bắt đầu thực sự ổn định và có chiều
hướng phát triển. Năm 1996, vốn đăng ký đầu tư đã tăng vọt với 2 dự án đầu tư
vào lĩnh vực phát triển đô thị ở Hà nội và Tp.HCM được phê duyệt với quy mô
lớn (hơn 3 tỷ USD/2 dự án). Thời kỳ đầu những năm 1991-1995 đầu tư nước
ngoài gia tăng cả về số dự án và vốn đầu tư, cho đến năm 1996 đạt mức kỷ lục là
8,6 tỷ USD về tổng số vốn đăng ký. Trong giai đoạn này tốc độ tăng trưởng bình
quân hàng năm vốn đầu tư nước ngoài đạt khoảng 50%/năm.
Đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn và công nghệ
vào Việt nam, đồng thời nó cũng có tác động trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên sang năm 1997 – 2000, đầu tư nước ngoài đã bị chững lại và giảm sút
do ảnh hưởng của cạnh tranh quốc tế và khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực.
Trong giai đoạn này vốn đầu tư nước ngoài giảm trung bình 24%/năm trong khi
đó, đầu tư nước ngoài vào Việt nam chiếm tỷ trọng 7,2% trong GDP, cao hơn
nhiều nước trong khu vực như (Trung Quốc: 4,9%, Thái Lan: 2,4%, Malaysia:
5,2%, Indonesia: 2,2%, Philippines: 1,5% - số liệu của UNCTAD, Báo Đầu tư
Thế giới 1999). Tỷ lệ đầu tư nước ngoài đã giảm đáng kể từ mức vốn đầu tư
đăng ký khoảng 8,6 tỷ USD năm 1996 xuống còn 1,9 tỷ USD năm 2000. Ngoài
ra, trong giai đoạn này còn có một xu hướng khác rất đáng lo ngại đó là số dự án
và vốn đầu tư giải thể tăng cao hơn nhiều so với giai đoạn trước. Tổng số vốn
đầu tư giải thể giai đoạn 1997-2000 khoảng 5,26 tỷ USD so với 2,69 tỷ USD của
8 năm trước đó cộng lại.
Nhưng sang đến năm 2001-2002, trong bối cảnh dòng đầu tư nước ngoài trên thế
giới liên tục giảm thì ở Việt nam đã có nhiều dự án đầu tư nước ngoài tăng vốn
nhất từ trước tới nay với 305 dự án, số vốn đăng ký tăng thêm 918,7 triệu USD
mở ra một bước phát triển mới của Thế kỷ 21.
3.3. Đối tác đầu tư
Cũng theo chiều hướng phát triển đó, nhiều nhà đầu tư thuộc 60 nước và vùng
lãnh thổ đã tham gia mạnh vào thị trường đầu tư Việt nam. Trong tốp dẫn đầu
đầu tư nước ngoài vào Việt nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông
chiếm vị trí quan trọng, với 2033 dự án và 15.976 triệu USD vốn đăng ký, chiếm
55,4% về số dự án và 40,8% về vốn đăng ký của tất cả các dự án đầu tư nước
ngoài đang còn hiệu lực. Bên cạnh đó, đầu tư của các nước Châu Âu vào Việt
nam cũng dần phát triển mạnh như Pháp, Hà Lan, Anh hơn nữa phải kể đến Hoa
Kỳ, một đất nước có nhiều rào cản khi đến với thị trường đầu tư Việt nam cũng
có 153 dự án với 1.111 triệu USD vốn đăng ký, đứng ở vị trí thứ 13.
Trong vài năm gần đây một số nước đã bứt lên dẫn đầu về số dự án tăng thêm
như Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông và Nhật Bản với 426 dự án, 768 triệu
USD vốn đăng ký, chiếm 61,3% tổng số dự án và 55% tổng số vốn đăng ký cấp
phép. Trong khi đó Châu Âu chỉ ở mức 56 dự án, với tổng vốn đăng ký là 82,5
triệu USD. Mỹ với 32 dự án, tổng số vốn đăng ký là 139 triệu USD, tăng 23% về
số dự án và 17,7% về số vốn đăng ký. Nhiều Tập đoàn, công ty xuyên quốc gia
lớn, có năng lực về tài chính và công nghệ đã xuất hiện tại Việt nam khiến cho
nền kinh tế của Việt nam đã có những bước chuyển biến mạnh như GDP liên tục
tăng qua các năm đạt mức thấp nhất là 2% vào năm 1992 và cao nhất là 13,25%
vào năm 2000.
Như vậy đầu tư nước ngoài đã trở thành một yếu tố quan trọng với hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài này ngày càng
chứng minh được tính ưu việt của mình so với các nguồn vốn đầu tư nước ngoài
khác nên nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, coi là chìa
khoá cho sự tăng trưởng.
Tại Việt Nam nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần giải quyết
được những vấn đề kinh tế xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển triển các nguồn
lực trong nước, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét