Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014

Tài liệu Đề tài " Chính sách tiền tệ và giá tài sản " pptx

(2) Thật vậy, đây là điều không chính xác. Ví dụ, các lý do thực tiễn trước đây về thước đó giá
cả bán lẻ bao gồm giá cả của hàng hóa lâu bền như tủ lạnh, hơn là giá cả của dịch vụ hiện tại
mà chúng ta sản xuất. Một mức đo giá trị căn nhà thì thường là sự sụt giảm giá nhà, điều này
nhằm vào sự ủy nhiệm của người sử dụng chi phí của căn nhà. Vì vậy, có một vài tác động trực
tiếp về giá nhà trên chỉ số PRIX. Và bởi vì nguồn gốc của giá nhà theo khuynh hướng tăng theo
vốn cho vay thế chấp, cũng có tác động trên sư thanh toán lãi suất thế chấp cấu thành RPI.
(3) Xem tập tiểu luận về thước đo Chỉ số giá tiêu dùng ở Mỹ mùa đông năm 1981 phát hành phát
hành trên tập san Triển vọng kinh tế.
(4) Goodhart (1999), giữa những vấn đề khác, sự thỏa thuận.
(5) Ngược lại, rơi vào thời kỳ ngắn tỷ lệ lãi suất không đáng kể giảm RPI bởi khoản trả lãi suất
thế chấp thấp (được loại trừ từ RPIX thước đo lạm phát là muajc tiêu của chính sách tiền tệ Mỹ)
Đầu tiên, tiền tệ là trung gian của sự trao đổi, bao gồm trao đổi về mặt thời gian, ví dụ trao đổi
bao gồm hàng hóa tiêu dùng (không thiết thực) vào những ngày khác nhau. Khả năng trao đổi có
thể hiện diện đề cao hơn tỷ lệ trao đổi vào mỗi ngày giữa tiền và sự tiêu dùng là ổn định hay tối
thiếu là có thể dự báo được.Việc đạt được sự ổn định – chính là sự ổn định về mặt mức giá của
tiêu dùng hiện tại – dường như là tốt nhất để chính sách tiền tệ có thể được thực hiện trong
những thời kỳ trao đổi thuận tiện về mặt thời gian.
Cụ thể, giả định thực tại thị trường không tồn tại sự trao đổi hàng hóa tiêu dùng theo thời gian
(gồm dịch vụ) (6), nhưng chúng có thể tồn tại sự trao đổi tiền theo thời gian ví dụ có nhiều thị
trường trái phiếu. Vì vậy các đối tác muốn trao đổi hàng hóa hiện tại để đổi lấy hàng hóa ở một
thời điểm t nào đó không thể trao đổi một cách trực tiếp được. Tuy nhiên chúng có thể trao đổi
tiền bây giờ với tiền tại thời điểm t bằng trao đổi trái phiếu. Điều này sẽ tái tạo (không sắn có) cơ
hội cho việc trao đổi hàng hóa không đồng thời gian, điều mà các đối tác thích thực hiện, nếu tỷ
lệ trao đổi giữa tiền tại thời điểm t và hàng hóa tại thời điểm t được định ra trước. Trong trường
hợp này, sự mất mát của thị trường cho việc trao đổi hàng hóa theo thời gian sẽ mang lại hiệu
quả thật sự.
Điều này đề nghị rằng cách tốt nhất để chính sách tiền tệ có thể có hiệu quả thuận tiện nhất khi
trao đổi hàng hóa theo thời gian là thực hiện việc dự báo, cho mỗi thời điểm t, tỷ lệ trao đổi giữa
tiền tại thời điểm t và hàng hóa tại thời điểm t. Cuộc thảo luận này gợi ý rằng trong yếu tố cơ bản
(không thực tiễn), mục tiêu ổn định giá của chính sách tiền tệ có liên quan cố định đến kỳ hạn
tiền tệ về giá của sự tiêu dùng hiện tại.
Thứ hai, việc giới thiệu sự cân nhắc về yếu tố thời gian đối với sự đo lường giá cả đúng là làm
tăng thêm một tầm mới của sự tăng thêm đo lường các vấn đề về chi phí thực tế từ tính đa dạng
giữa các đại lý kinh tế (mà không có sự trao đổi mua bán, vì vậy không cần trung gian trao đổi).
Khái niệm chi phí cuộc sống thực tế vì vậy là một đơn hàng với tầm quan trọng khó giải quyết
hơn chi phí cuộc sống hiện tại, chính bản thân nó cũng thấy khó mà minh bạch.
Thứ ba, thâm chí sự khái niệm chỉ ra một cách rõ ràng, tôi không biết chúng ta hy vọng như thế
nào để đo lường giá cả và số lượng của tài sản có liên quan, hay quyết định chúng là cái gì? (7)
(6) Tất nhiên có nhiều chỉ số liên hệ trên thị trường trái phiếu, nhưng với quan hệ với vài người
phát hành (hầu hết là chính phủ)
Tất nhiên có nhiều khó khăn về sự đo lường như là quan hệ về chất lượng – cũng quan trọng
trong việc đo lường giá cả hiện tại, nhưng theo thời gian chắc chắn chúng sẽ được phóng đại lên
hết sức to lớn. Vấn đề đo lường tất cả các loại trên theo các lý do trước đây gồm sự định rõ và sự
ép buộc các hợp đồng liên kết về chỉ giá, kể cả những hợp đồng hoàn toàn tuyệt đối – ví dụ tiêu
biểu rõ ràng trong mục tiêu lạm phát – giữa quyền lực của tiền tệ và những cái mà chúng phải
chịu trách nhiệm. Hơn nữa, tính chất không ổn định của giá cả tài sản – hay tối thiểu là một phần
của nó vì sự không ổn định của tỷ lệ giảm giá thực tế - sẽ được truyền đến thước đo giá cả, hơn
nữa là thước đo và trách nhiệm giải trình rắc rối.
Một vấn đề riêng đáng tranh cãi giá trị kể cả giá trị tài sản trong thước đo lạm phát được sử dụng
cho mục đích chính sách tiền tệ, điều đó sẽ làm các hoạt động có uy tín theo cách hợp thời gây ra
sức ép từ lạm phát (giảm lạm phát). Với chỉ số tiêu dùng như là một dụng cụ hay mục tiêu chính
sách tiền tệ, Alchian và Klein nói rằng, “sự thay đổi chính sách thường sẽ đến trễ và chậm
chuyển dịch”. Người người tin tưởng quan điểm này sẽ chỉ ra những đoạn giữa những năm cuối
thập kỷ 80 lạm phát về giá nhà ở Anh hay giá cả tài sản ở Nhật.
Cuộc thảo luận của họ dường như cho thấy rằng những người lập nên chính sách nên có những
mục tiêu bao hàm giá cả tài sản, với kết quả là mục tiêu đó bị chệch đi. Nói một cách đơn giản,
nếu chính sách hướng theo đường quanh co, và giá cả tài sản dẫn đầu nó, sau đó chính sách sẽ tốt
hơn nếu mục tiêu của nó bao gồm giá cả tài sản. Chú ý rằng cuộc thảo luận này thì khác với
những cuộc thảo luận về những đòi hỏi trên, như là vấn đề về nguồn gốc, mục tiêu chính sách
sau cùng nên bao gồm giá cả hàng hóa tương lai. Điều đó nói rằng, khi một vấn đề thực tế,
những người có thẩm quyền nên thành lập một mục tiêu khác với mục tiêu cơ bản (mà chỉ liên
quan đến lạm phát giá hàng hóa ở hiện tại) để bù đắp việc nhận thức về xu hướng chống lại hoạt
động hàng ngày. Nhưng nếu như một vấn đề tồn tại, nhiều giải pháp trực tiếp đòi hỏi cách thức
chính sách lôi kéo thông tin giá cả tài sản, và giải pháp tốt thứ hai là đặt giá cả tài sản trong mục
tiêu chính sách.
Vì những lý do này, tôi không mô tả tầm nhìn của giá cả tài sản trong thước đo mục tiêu của lạm
phát trong mục đích của chính sách tiền tệ.
(7) Alchian và Klein (1973, trang 187-89) thảo thuận vấn đề thước đo. Chúng bao gồm những
ghi chú chi phí của chỉ số giá dọc theo các điểm thì ít phù hợp hơn những ghi chú về lợi nhuận
của chính sách hoàn thiện căn cứ vào “những vấn đề sai lạc của lạm phát”
Giá tài sản có thể nói cho chúng ta về chính sách tiền tệ là gì?
Giá tài sản đưa ra chính sách tiền tệ vừa trực tiếp vừa rộng rãi hơn. Giá trị trực tiếp của thông tin
giá tài sản được đưa ra bởi sự trả lời câu hỏi: giá tài sản thuộc sở hữu của họ có thể nói cho
chúng ta về những gì chính sách tiền tệ có thể hay mong đợi điều gì? Nhiều giá trị chung của
thông tin giá tài sản (ở phần tiếp theo) có thể được định giá bằng việc hỏi những gì mà thông tin
giá tài sản còn có thể cho chúng ta những thông tin khác nữa có liên quan đến khả năng lạm phát.
Sự thu hút của thông tin từ giá tài sản tiêu biểu bao gồm tập trung vào ba loại câu hỏi:
• Dữ liệu đối tượng thị trường liên quan đến những sự biến đổi của lợi ích kinh tế như thế
nào?
• Giá tài sản phản ánh giá trị chủ yếu – ví dụ như tiền được khấu trừ (giảm bớt rủi ro) được
mong đợi sự hoàn trả?
• Thái độ với rủi ro của người tham gia thị trường là gì?
Như thường lệ trong kinh tế học, thế tiến thoái lưỡng nan tạo nên nhiều giả định sinh ra kẻ lừa
đảo nhưng cho nhiều kết quả đáng ngờ hơn. (Nhiều người có thể mở nhiều hơn khả năng có thể
nhưng nội dung họ nhận được không chắc chắn hơn). Ví dụ đường cong lợi tức thực và danh
nghĩa có thể cung cấp nhiều thông tin rõ ràng về sự mong chờ lạm phát nếu một ai đó đủ can
đảm để đánh giá rằng nó có một kỹ thuật ước lượng đường cong lợi tức thiết thực và sự mong
đợi dựa trên lý trí và thái độ trung lập với rủi ro. Dựa vào thế tiến thoái lưỡng nan này, nó là điều
luôn luôn quan trọng để được có kiến thức mà kết quả phụ thuộc vào những giả định, đến mức
mà đặc biệt khi những vấn đề dị thường hay khó trả lời xuất hiện, những giả định (và dữ liệu,
phương pháp) là vấn đề hoàn toàn thích hợp trước khi kết quả được định sẵn.
Đối với những nhiệm vụ liên quan đến dữ liệu kinh tế đối với sự thay đổi kinh tế, một vài công
cụ cơ bản của kết luận là đường cong lợi tức và ám chỉ chức năng phân phối theo xác suất (PDF).
8
Đường cong lợi tức có thể được ước tính cho lợi ích thực hoặc danh nghĩa hoặc ám chỉ tỉ lệ ở
tương lai.
9
Lợi ích đặc biệt là khoảng cách lợi tức – tức là sự khác nhau giữa các loại lợi tức. Ví
dụ, khoảng cách giữa lợi ích thực và danh nghĩa đem lại tỉ lệ lạm phát gián đoạn như nhau
(break-even),
10
mà những giả định chắc chắn dưới đây có thể được làm sáng tỏ như tỉ lệ lạm
phát mong đợi. Và khoảng cách giữa lợi tức thuộc về chính phủ và công ty (hoặc giữa những lợi
tức trên số tiền nợ hiện tại của các nước khác nhau) cung cấp những dụng cụ đo lường rủi ro vỡ
nợ liên quan. Việc đường cong lợi tức (và PDF) bao gồm sự đưa ra những vấn đề thuộc về kỹ
thuật của sách hướng dẫn để nhận được những đường cong từ dữ liệu thị trường, và những vấn
đề về kinh tế của sách hướng dẫn để giải thích chúng. Theo những gì mà tôi hoàn toàn cho rằng
đường cong lợi tức (và PDFs) có thể được chú ý lập tức, và vì vậy tránh được những vấn đề thử
thách và hấp dẫn của của sách hướng dẫn tốt nhất nhận được từ dữ liệu thị trường. Nhưng phụ
lục của bài này bởi niki Anderson của Bank’s Monetary Instruments và sự phân chia thị trường
chứa đựng sự thảo luận ngắn gọn của vài khía cạnh của những vấn đề này, và chúng ta đang giải
quyết chúng tại ngân hàng như thế nào.
8 Lời cảm ơn đến sự phát triển của thị trường bắt nguồn từ sự hợp lý và của kỹ thuật của phân
tích thị trường tài chính, bây giờ nó có thể đưa ra những kết luận về sự phân bố xác suất toàn bộ,
không có của cái của những sự phân bố này. Söderlind and Svensson (1997) cung cấp sự khảo
sát xuất sắc gần đây của những kỹ thuật này.
9 Campbell (1995) đưa ra cái nhìn tổng thể của đường cong lợi tức kinh tế, xem phụ lục của bài
này. Lợi tức tại thời hạn phải thanh toán là tỉ lệ thanh toán liên tiếp của lãi suất trong trái phiếu
không có phiếu lãi của kỳ hạn thanh toán đó. Tỉ lệ trong tương lai tại kỳ hạn phải thanh toán -
hoặc ngụ ý về tương lai nếu không có thị trường tương lai – là lợi tức thời kỳ “s” cho những
thời kỳ sau đây. Những đường cong lợi tức cho thấy cấu trúc thời hạn tức là tỉ lệ như là một chức
năng của .
Lạm phát mong đợi
Sự đo lường của những mong đợi về lạm phát là trung tâm của việc phân tích chính sách tiền tệ.
Những viễn cảnh của lạm phát chịu ảnh hưởng bởi những mong đợi về lạm phát, ví dụ thông qua
quy trình của sự quyết định giá cả và tiền lương. Những mong đợi về lạm phát ổn định và thấp
hơn là then chốt để thiết lập giá cả và lợi ích kinh tế mở rộng lưu lượng từ nó. Và những mong
đợi về lạm phát cung cấp hướng đánh giá sản lượng lạm phát MPCæ là không chắc xảy ra và
những mong đợi về lạm phát là một hướng dẫn về chính sách quyết định quyền lợi chung được
mong đợi là tốt nhất cho những gì có thể hy vọng. Điểm này đưa ra sự xem xét bên trong bởi
MPC cũng như sự đánh giá bên ngoài. Ví dụ, nếu tỉ lệ lạm phát hoà vốn (break-even inflation
rates) mong đợi bởi đường cong lợi tức tăng lên theo giá cả sinh hoạt và danh nghĩa thực chất
trên hoặc dưới mục tiêu lạm phát là 2.5%, sau đó (a) thị trường mong đợi lạm phát không đến
mức như mục tiêu đề ra và/hoặc (b) tỉ lệ lạm phát hoà vốn mong đợi không đo lường mong đợi
của thị trường (nghĩa là) của tỉ lệ lạm phát trong tương lai.
10
Điều kiện tỉ lệ lạm phát hoà vốn được đặc biệt sử dụng trong thị trường để nói đến tỉ lệ trung
bình của lạm phát mà làm cho thu nhập thực bằng nhau trong hai sự hào nhoáng có thể so sánh
được: một theo quy ước và một tăng lên theo giá cả sinh hoạt. Kỳ hạn được sử dụng rộng rãi hơn
để quy sự khác nhau giữa đường cong lợi tức thực và danh nghĩa đã nhận được từ thị trường mạ
vàng.
Trong trường hợp (a), nó mong đợi rằng MPC cũng mong đợi lạm phát ở mức trung bình và
không đến mức mục tiêu đề ra – ví dụ nếu sự va chạm hợp với nền kinh tế và tầm nhìn quá ngắn
một cách hợp lý để bù đắp cho chúng. Mặt khác, sự giải thích rằng mong đợi của thi trường về
khả năng phát triển thị trường và chức năng phản ứng lại cùng với ám chỉ không đạt đến mục
tiêu trung bình. Trong trường hợp đó nó có thể nghĩ tích cực về việc tại sao hành động đánh giá
rõ ràng của thị trường không đồng tình với MPC. Trong khả năng phán đoán thị trường như là
sự báo thời tiết bên ngoài mà đặt của cải của nó vào nơi mà miệng của nó không thể.
11
Nhưng trường hợp (b) công nhận, tỉ lệ lạm phát hoà vốn được ám chỉ có thể không nhất thiết
được đánh đồng với lạm phát mong đợi của thị trường. Giá thực tế là khó để đo lường, những
người đại diện có khả năng thanh toán bằng tiền mặt hoặc có tính chất là cơ quan có thể được
làm cảm động giá cả và rủi ro lạm phát khác không là khả năng hoàn toàn có thể.
Một phần của những lý do này, nếu tỉ lệ lạm phát hoàn vốn đã ở mức mục tiêu đề ra, nó có thể
không nhất thiết rằng chính sách đã được đặt lại cho đúng quyền lợi. Ví dụ, nếu chính sách hoàn
toàn đáng tin, sau đó thị trường xuất phát từ phạm vi của lạm phát mong đợi sẽ không chứa
đựng thông tin về lạm phát mong đợi ngoại trừ việc kiểm tra rằng chính sách còn lại đáng tin.
Trong tình hình không lành mạnh nơi mà thị trường chứa đựng MPC có thể làm bất cứ việc gì để
có thể nhận được lạm phát mong đợi như mục tiêu đề ra, lạm phát mong đợi của thị trường gốc
có thể không nhận được dấu hiệu nào để làm, nhưng tỉ lệ lợi tức mong đợi của thị trường cơ sở
có thể vẫn được cung cấp nhiều tin tức – xem dưới đây. Đây không là khoảnh khắc để đề xuất,
ngược lại, miễn đó là những người tham gia thị trường tạo nên những quan niệm độc lập, chính
sách có thể theo thị trường – ví dụ bằng cách nhắm vào tỉ lệ lạm phát hòa vốn theo mục tiêu.
Điểm đơn giản rằng lạm phát thị trường gốc được dự đoán, như sự dự đoán ở bên ngoài, khả
năng có giá trị cung cấp nhiều tin tức cho chính sách để đánh giá rằng chúng độc lập.
Biểu đồ 1 và 2 cho thấy tỉ lệ lãi suất thực và danh nghĩa trong năm và mười năm kế tiếp đã xuất
phát từ đường cong lợi tức chính phủ không có phiếu giảm giá của Ngân hàng. Hai biểu đồ cũng
cho thấy tỉ lệ lạm phát hòa vốn sắp tới ở cùng một kỳ hạn thanh toán. Những mong đợi vừa phải
và thái độ trung lập với rủi ro, tỉ lệ lạm phát hòa vốn tiêu biểu cho lạm phát mong đợi của thị
trường cho thời kỳ 6 tháng bắt đầu từ năm đến mười năm từ một vài điểm cho sẵn trên biểu đồ.
11 Thị trường có lòng nhân đạo bằng việc cho rằng mong đợi để nó là có những khuyết điểm,
nhưng có ích cho phương pháp tốc ký.
Tỉ lệ lạm phát hòa vốn trong mười năm tới đã rớt xuống từ dưới 10% trong năm 1982 đến 2.6%
hiện nay. King (1995) đã chấp nhận ám chỉ tỉ lệ lạm phát sắp tới để đánh giá sự tín nhiệm của
chính sách tiền tệ: tỉ lệ mười năm tới bằng 2.6% là thích hợp với lạm phát UK trong tương lai thị
trường mong đợi để còn lại trong giới hạn với mục tiêu lạm phát hiện tại. Sự hạ xuống trong tỉ lệ
lạm phát hòa vốn sắp tới có lẽ trong phần phản chiếu (premia) rủi ro lạm phát thấp hơn. Nếu vì
vậy, điều đó quá thích hợp với sự tín nhiệm chính sách tiền tệ.
Biểu đồ 1
Biểu đồ 2
Dĩ nhiên những đường cong lợi tức không chỉ là nguồn thông tin về lạm phát mong đợi như
những người tham gia thị trường tài chính còn là một số lượng nhóm kinh tế có lạm phát mong
đợi có tính chất quan trọng. Thêm vào đó, có các dụng cụ đo lường trực tiếp như khảo sát
Barclays Basix – xem bảng 1, mà cho thấy rằng báo cáo lạm phát mong đợi đến gần mốc 2.5%
mục tiêu hơn năm ngoái. Những công cụ đo lường được khảo sát cũng cần giải thích cẩn thận,
nhưng chúng là phần bổ sung có giá trị và việc kiểm tra chéo ở trên, nhũng công cụ đo lường thị
trường cơ bản.
Bảng 1: Lạm phát mong đợi trong thời kỳ ngắn (a)
1998
Q2
1999
Q2
Công chúng 5.1 4.6
Công đoàn 3.8 3.2
Quản lý tài chính 3.2 2.4
Tiết kiệm kinh doanh 2.9 2.7
Phân tích đầu tư 3.3 2.8
Các nhà kinh tế trừu tượng 3.1 2.6
(a) Mong đợi của tỉ lệ lạm phát một đến hai năm tới. Lạm phát RPI, loại trừ toàn bộ do quần
chúng cung cấp cho việc đo lường lạm phát là không theo danh nghĩa.
Nguồn: Barclays Basix Survey.
Tỉ lệ lãi suất mong đợi
Những đường cong lợi tức được cung cấp nhiều tin tức trực tiếp về chính sách tiền tệ mong đợi
trong tương lai, và ở nơi mà toàn cảnh thị trường của sức ép do thị trường gây ra. Ví dụ, nếu thị
trường nắm bắt được toàn cảnh rằng MPC có thể làm bất cứ việc gì cần thiết để giữ lạm phát ở
mức mục tiêu đề ra, đường cong lợi tức trong thời kỳ ngắn có thể chỉ ra cách thức thị trường xem
xét chính sách tiền tệ có thể được củng cố/ giảm bớt sức ép do lạm phát gây ra.
Tỉ lệ trao đổi cho biết tỉ lệ lãi suất danh nghĩa mong đợi, đưa ra để vượt qua rủi ro. Thêm vào đó,,
chính sách tiền tệ mong đợi – tức là mong đợi tỉ lệ chính thức – không thể được suy ra trực tiếp
từ đường cong trao đổi hoặc đồng bảng anh không đạt chuẩn bởi vì có những sự phình ra của tín
dụng, mà có lẽ thay đổi qua thời gian.
VÌ vậy tương lai của đồng bảng anh không đạt chuẩn là hợp đồng trên lãi suất ngan hang London
3 tháng, nhưng ngược lại MPC bố trí 1 lãi suất trong 2 tuần. 12 Thông thường vậy tương lai của
đồng bảng anh không đạt chuẩn có thể được xung quanh 20 nền tảng đặc biệt (một phần trăm của
một xu) trên lãi suất chính thức mong đợi tương ứng cho lý do của rủi ro tín dụng, khả năng
thanh toán bằng tiền mặt và sự khác nhau trong kỳ hạn thanh toán cảu hai lãi suất. 13 Nhưng
không có lý do nào để nghĩ rằng khoảng rộng này là không thay đổi - đến hiện tại có dấu hiệu
chắc chắn của hiệu lực.
12 Lãi suất hợp đồng mua lại là lãi suất chính thức của lọi tức được chọn bởi MPC nơi mà ngân
hàng của anh cho thị trường chứng khoán vay . Xem thêm ở ô của trang 5 của Ủy ban chính sách
tiền tệ (1999)
13 Xem hộp ở trang 331 của tháng mười một năm 1997 Ngân hàng của England Quarterly
Bulletin

Ví dụ - và thực tế việc phân tích của khoảng rộng là chủ đề quan trọng của nó (xem dưới đây)
Như thế, từ lãi suất trao đổi là cơ sở cho giá trị tương lai mong đợi và hiện tại của 6 tháng , xu
hướng này cao hơn lợi tức trong khu vực trái phiếu chính phủ của cùng kỳ hạn thanh toán.
Ví dụ và thực vậy sự phân tích của sự lan truyền là một chủ đề quan trọng của riêng của mình
(xem dưới đây). Tương tự, từ mức giá trao đổi được dựa trên hiện tại và dự kiến giá trị trong
tương lai của tỉ lệ lãi suất liên ngân hàng sáu tháng, nhưng có xu hướng cao hơn nhiều so với sản
lượng trên trái phiếu chính phủ cùng kỳ hạn thanh toán.
Đối với bất cứ con đường cho tỉ lệ lãi suất mong chờ cho dù chính thức hay tỉ lệ lãi suất một vấn
đề quan trọng cho phân tích chính sách tiền tệ là sự phân tích giữa tỷ lệ thực sự mong đợi và lạm
phát dự kiến (và có nguy cơ rủi ro). Một thực tế gần đây ví dụ về vấn đề này nảy sinh trong tháng
5 này. Đường cong đồng bảng anh ngắn, mà đã được gần với căn hộ trong phần đầu của tháng,
hoa hồng xem biểu đồ 3.
14
(hiện tượng này đã không được hạn chế bởi UK, và quả thật nó dường
như trong phần sau có Hoa Kỳ phát triển.) nguy lạm phát dự kiến tăng thị phần? Hoặc tỷ lệ thực
sự mong đợi? Hoặc là cái gì khác, không có trong các sách giáo khoa, ra?
Biểu đồ 3
14 Các bước của đường cong đi xa hơn qua mùa hè. Một trong những biểu hiện này là so sánh
giữa lạm phát dự đoán điều kiện theo một lãi suất cố định và theo lãi suất thị trường. Trong
những tháng 5/1999. Báo cáo lạm phát, lãi suất thị trường đã được chính thức, phù hợp với tỷ lệ
còn lại không xa của nó sau đó tỷ lệ lan khắp của 5,25% so với hai năm dự đoán khinh. Tuy
nhiên, do thời gian của tháng tám. Tỉ lệ lạm phát Báo cáo vi, lãi suất thị trường đã được bao hàm
một tỷ lệ chính thức của hai năm tới một số 2% phía trên sau đó lan khắp chính thức tỷ lệ 5%.
Trong những tháng năm lạm phát dự đoán dựa trên điều kiện thị trường và hầu như đã được cố
định theo giá không rõ ràng. Không phải như vậy trong Tháng tám.
Các giả thuyết khác nhau có khả năng triển khai chính sách khác nhau. Lạm phát cao hơn mong
đợi, nếu hợp lý, có thể theo hướng tăng tỷ lệ chính thức. Tuy nhiên, một giá ở mức giá thực tế thị
trường sẽ có xu hướng làm chậm các hoạt động và tiềm năng lạm phát, mà có thể là một yếu tố
theo hướng giảm tỷ lệ chính thức, ít nhất là trong ngắn hạn, để giữ lạm phát theo dõi trên để đáp
ứng các mục tiêu. (Nhưng lưu ý rằng việc này sẽ không được thích hợp nếu cao hơn thực tế đã
được dự đoán là một mức giá không độc lập của chính sách tiền tệ cần thiết để đầu ra trong một
gia tăng tiềm năng lạm phát.)
Các chứng cứ xem xét tại cuộc họp tháng sáu của MPC đã được pha trộn. Tại một thời hạn thanh
toán dài hơn, tăng lên theo giá sinh hoạt sản lượng trái phiếu đã có thay đổi trong khi đó lợi
nhuận danh nghĩa đã tăng lên, đề xuất rằng lạm phát mong đợi đã tăng lên. Nhưng nó có thể đã
được thay đổi trong nguy cơ (ví dụ như là sau khi - ảnh hưởng của LTCM) và các yếu tố (ví dụ
như trợ cấp vốn đầu tư quy định) được làm biến dạng lạm phát kỳ vọng như đo bằng sản lượng
đường cong các mức chênh lệch. Khảo sát và chứng cứ dự báo khác ' dự đoán cho thấy ít tăng
trong ngắn hạn để kỳ vọng lạm phát trung hạn. Toàn bộ nó được đánh giá không hợp lý rằng lạm
phát đã có những kỳ vọng của tăng như kỳ hạn thanh toán ngắn hạn tỷ lệ chuyển tiếp, do đó, thực
tế ngắn hạn có thể tăng sản lượng.
Làm gì với giá tài sản giá để thêm vào các thông tin khác?
Thực tế là tài sản riêng của họ về giá cả có thể sản lượng thông tin cho mục đích hiện chính sách
tiền tệ không có nghĩa là các ngoài giá trị của nó như là thông tin đó là nhất thiết phải có giá trị
nhiều một kiểm tra chéo về nước khác trên đầu trang của tất cả các thông tin khác cho rằng hiện
có sẵn để hướng dẫn chính sách. Tôi muốn tranh luận, tuy nhiên, đó là những giá trị gia tăng
đáng kể.
Một cách để xem xét vấn đề này là để bắt đầu từ các tiêu chuẩn này quy định Taylor Rule.
15
đặt
lãi suất ở trên hoặc dưới một số 'vô' cấp đến một mức độ tùy thuộc vào: (i) sự khác biệt giữa lạm
phát hiện nay và mục tiêu lạm phát, và (ii) sự khác biệt giữa thực tế và tiềm năng sản lượng sản
lượng khoảng cách. Giả sử rằng giá tài sản không phải là lạm phát trong các biện pháp, quy định
này. xuất hiện để bỏ qua các thông tin tài sản giá ngoại trừ trường như nó được sử dụng để xác
định mức độ trung lập của lãi suất.
15
Dĩ nhiên có nhiều biến thể khác nhau của chuẩn Taylor Ruleæ ví dụ việc kết hợp chặt chẽ của
lạm phát mong đợi trong tương lai hơn lạm phát hiện tại. Bernanke and Gertler (1999) so sánh
chính sách trên cơ sở lạm phát mong đợi trong tương lai và không có vai trò phụ thuộc vào giá
tài sản. Trong những cuộc thử nghiệm mô phỏng của họ, chính sách tốt nhất trong điều khoản
của giảm thiểu lạm phát và sự thay đổi của việc cung cấp là tập trung vào lạm phát mong đợi và
không trả giá tài sản mong đợi ngoại trừ mức mà chúng có tính chất quan trọng đối với lạm phát
mong đợi (mà chúng làm)
So sánh này với một tài khoản, chẳng hạn như rằng ở Vương quốc Anh, nơi mà chính sách tiền
tệ, mà làm việc với các sự chậm trể, được thiết lập với một tương lai để được xem lạm phát về
mục tiêu. Trong bối cảnh giá tài sản đang hữu ích trong cả hai dự báo và trong chính sách làm
cho dự đoán của lạm phát triển vọng phân tích, đánh giá như thế nào chính sách có thể ảnh
hưởng đến những triển vọng.
Ở một mức độ kỹ thuật, giá tài sản ở một số tính năng của các mô hình, bao gồm kinh tế học vĩ
mô hiện đại, được sử dụng để giúp đỡ MPC mẫu cho các dự đoán và lạm phát như mô tả trong
cuốn sách gần đây mô hình Tốc độ tăng trưởng kinh tế tại Ngân hàng của Anh. Và một Trung
tâm chủ đề của MPC gần đây trên giấy Các chuyên về Cơ khí của Chính sách tiền tệ là trọng, vai
trò của giá tài sản trong quá trình đó, chính sách tiền tệ, quyết định làm việc thông qua nền kinh
tế. Nhưng tôi sẽ không cố gắng để thu thập những mô tả dưới đây.
Nhà đầu tư
Hầu hết các thảo luận cho đến nay đã quan tâm tài chính tài sản được tiếp tục thương mại trong
nước bán buôn thị trường giao dịch với chi phí thấp, nơi phản ánh giá cả thị trường tiếp nhận
thức hoặc ngay lập tức ít hơn. Thị trường cho các khu dân cư khác nhau đều có trong tự nhiên.
Nhà, và vay vốn bảo đảm trên chúng, tương ứng là quan trọng nhất tài sản và công nợ của các cá
nhân trong lĩnh vực Vương quốc Anh. Phát triển nhà ở giá cả và hoạt động chủ yếu là do đó là
một phần của tài sản giá thông tin liên quan cho các chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, các mối quan
hệ giữa giá nhà và lạm phát rất phức tạp và hiểu thiếu sót.
Xem xét, ví dụ, một số khía cạnh của các mối quan hệ giữa giá nhà và tiêu dùng khách hàng.
16
Nhà đầu tư cao hơn giá tăng (tổng) sự giàu có của chủ nhà, và lớn hơn giàu có xu hướng cao hơn
dẫn đến chi tiêu tiêu dùng. Quả thực nó có thể được rằng lạm phát gia tăng trong nhà ở giàu có
xu hướng ảnh hưởng tiêu thụ hơn lạm phát gia tăng trong tài chính sự giàu có. Đều có thể được
được sử dụng cho các hộ gia đình như dễ dàng hơn vay thông qua công rút thế chấp vay hơn,
nói rằng, quỹ trợ cấp giàu có. Nhà đầu tư cũng có thể phản ánh các ảnh hưởng về tiêu dùng,
chẳng hạn như mức độ, và không trong ngắn, chắc chắn về, dự kiến trong tương lai thu nhập từ
việc làm sự tự tin. Và hoạt động trong thị trường nhà ở, mà thường phải thực lớn hơn khi giá cả
đang tăng, có thể có ảnh hưởng trực tiếp tự nhiên, theo yêu cầu bền lâu cho người tiêu dung. Tuy
nhiên, những tác động của việc cao hơn nhà giá chi tiêu tiêu dùng ngày nay đang có một cách rõ
ràng. Ví dụ, nhà cao hơn giá nói chung và nhiều hơn nữa những người sở hữu có thể dẫn không-
chủ nhà nhà ở ít hơn của họ để lại chi tiêu dự đoán các nhu cầu nhà ở quy mô trên không nhà ở
các dịch vụ.
16 Cũng có tác động trực tiếp của giá nhà trong các công cụ đo lường lạm phát, xem lời chú
thích 2 ở cuối trang trên.
Hơn nữa, nói rằng, quỹ trợ cấp giàu có. Nhà đầu tư cũng có thể phản ánh các ảnh hưởng về tiêu
dùng, chẳng hạn như mức độ, và không trong ngắn, chắc chắn về, dự kiến trong tương lai thu
nhập từ việc làm sự tự tin. Và hoạt động trong thị trường nhà ở, mà thường phải thực lớn hơn khi
giá cả đang tăng,có thể có ảnh hưởng trực tiếp tự nhiên, theo yêu cầu cho người tiêu dùng lâu
dài. Tuy nhiên, những tác động của việc cao hơn nhà giá chi tiêu tiêu dùng ngày nay đang có một
cách rõ ràng. Ví dụ, nhà cao hơn giá nói chung và nhiều hơn nữa những người sở hữu có thể dẫn
không-chủ nhà nhà ở ít hơn của họ để lại chi tiêu dự đoán các nhu cầu nhà ở quy mô trên không
nhà ở các dịch vụ.
Với những điều này và các loại khác có thể có ảnh hưởng tại nơi làm việc, có thể có được không
chính xác trong việc xét xử đối với tổng hợp tiêu thụ ngay cả trong quá khứ của sự phát triển
trong nhà giá. Hiện là gặp khó khăn hơn nữa trong tương lai có thể được tổng kết, đánh giá giá
nhà phát triển. Tại lần nhà giá di chuyển cổ phần, không chỉ riêng ở địa phương, và đã có phần
giữa như xảy ra mười năm trước, khi có vẻ tự giá nhà bùng nổ đột ngột sụp đổ. Sự tăng trưởng
trong nhà giá cả đã được theo sau bởi một sự đột biến trong hàng hoá và dịch vụ giá lạm phát,
mà gần 10% trong năm 1990. Sự kéo dài trầm cảm của người tiêu dùng theo nhu cầu nhà ở ngã
giá, một phần vào tài khoản phủ định của công của một số chủ nhà mang ơn.
Các cấp độ hiện tại của nhà giá trên toàn quốc, không có gì không xuất hiện để được rõ ràng
trong mối quan hệ không bình thường nhà nhưng giá chỉ có tốc khá (xem Biểu đồ 4) để thu nhập
cổ phần trong những tháng gần đây.Hàng năm của nhà lạm phát giá hiện nay là 9% hay như vậy,
và trong ba tháng đến tháng Tám, nhà ở do giá tăng khoảng 5% và 4% tương ứng theo các biện
pháp toàn quốc.
Chart 4
Đánh giá mức độ có thể có đối với nhu cầu và lạm phát giá của nhà phát triển là một cao bất định
vấn đề. Nhưng chính sách tiền tệ đòi hỏi phải liên tục đánh giá tiến triển của số dư rủi ro đối với
tương lai của lạm phát. Giá nhà phát triển là một phần của vấn đề này nếu chỉ có một phần tương
đối nhỏ của một bức tranh lớn hơn bởi vì, cũng như các tài sản giá về sự phát triển, họ thêm vào
các thông tin có sẵn để hướng dẫn bản án về lạm phát triển vọng. Vì vậy, giá cả nhà không phải
là một độc lập mối quan tâm của chính sách tiền tệ. Giống như tất cả các chỉ số kinh tế khác, họ
đến các vấn đề rằng họ , và chỉ đến mức mức độ nói điều gì đó tổng thể về lạm phát triển vọng.
Giá của các giá trị tài sản và các câu hỏi bong bóng
Không có thảo luận về giá tài sản hiện nay sẽ được hoàn thành mà không có một từ trên công
bong bóng câu hỏi. Có bong bóng trong công giá? Có thể chính sách tiền tệ giảm, hoặc ưu tiên,
giá tài sản bong bóng? Nếu như vậy, nên nó?
Câu trả lời cho là người đầu tiên của những câu hỏi này là bạn sẽ không bao giờ biết chắc chắn
cho dù giá cả thị trường nào, hay không, phản ánh kinh tế cơ bản. Hầu hết các kỹ thuật cho các

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét