Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG ĐÔ THỊ TẠI TP.VIỆT TRÌ

CSHT đô thị là những tài sản vật chất và các hoạt động hạ tầng có liên
quan dùng để phục vụ các nhu cầu kinh tế - xã hội của cộng đồng dân cư đô
thị.
Với khái niệm trên thì toàn bộ các công trình giao thông vận tải, bưu
điện, thông tin liên lạc, dịch vụ xã hội như: đường giao thông, sân bay, nhà
ga, xe lửa, hệ thống điện, đường ống xăng dầu, giáo dục phổ thông và chuyên
nghiệp, y tế, dịch vụ ăn uống công cộng, nghỉ ngơi, du lịch v v được gọi là
CSHT đô thị.
1.1.2. Vai trò, ý nghĩa cơ sở hạ tầng đô thị
Vai trò: sự phát triển CSHT đô thị có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển của nền sản xuất xã hội, dịch vụ xã hội và việc nâng cao hiệu quả của nó,
cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, vai trò của CSHT không ngừng
tăng lên. Do đó, hình thành CSHT vật chất mới hiện đại tiên tiến hơn, đảm
bảo phục vụ cho các hoạt động kinh tế, đảm bảo việc bảo vệ môi trường xung
quanh, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên v v nhằm mục đích phát triển
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
Ý nghĩa CSHT đô thị: việc quản lý và phát triển CSHT đô thị một cách
khoa học và hợp lý có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì CSHT là nền tảng,
đảm bảo cho sự phát triển bền vững của cả một hệ thống đô thị quốc gia nói
riêng và sự phát triển bền vững của một quốc gia nói chung. Một đất nước
giàu mạnh, hiện đại và văn minh cần phải có hệ thống CSHT đô thị vững
mạnh, đồng bộ, hiện đại, tiện lợi và hiệu quả.
1.1.3. Phân loại cơ sở hạ tầng đô thị
Tùy theo từng căn cứ, từng tiêu thức phân loại mà ta có thể phân CSHT
đô thị thành nhiều loại khác nhau
- Theo quy mô đô thị có thể phân ra:
+ CSHT siêu đô thị
+ CSHT đô thị cực lớn
+ CSHT đô thị lớn
+ CSHT đô thị trung bình
+ CSHT đô thị nhỏ
- Theo tính chất ngành cơ bản có thể phân ra:
SVTH: Đào Mạnh Hoàng Lớp: Kinh tế Quản lý đô thị 49
5
+ CSHT kỹ thuật đô thị
+ CSHT kinh tế - xã hội đô thị
+ CSHT dịch vụ xã hội đô thị
- Theo tính chất phục vụ có thể phân ra:
+ CSHT đô thị phục vụ sản xuất vật chất
+ CSHT phục vụ nhu cầu văn hóa, tinh thần
- Theo trình độ phát triển có thể phân ra:
+ CSHT đô thị phát triển cao
+ CSHT đô thị phát triển trung bình
+ CSHT đô thị phát triển thấp
1.2. KHÁI NIỆM VỀ ĐẦU TƯ VÀ CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ
1.2.1 Khái niệm về đầu tư:
- Đầu tư là sự chi tiêu vốn cùng với các nguồn lực khác trong hiện tại để
tiến hành một hoạt động nào đó ( tạo ra, khai thác, sử dụng một tài sản ) nhằm
thu về các kết quả có lợi trong tương lai.
- Đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại ( tiền, của cải,
công nghệ, đội ngũ lao động , trí tuệ, bí quyết công nghệ, … ), để tiến hành
một hoạt động nào đó ở hiện tại, nhằm đạt kết quả lớn hơn trong tương lai.
1.2.2. Các hình thức đầu tư:
Hoạt động đầu tư có thể được phân loại theo những tiêu thức khác nhau,
mỗi cách phân loại đều có ý nghĩa riêng trong việc theo dõi, quản lý và thực
hiện các hoạt động đầu tư.
Theo các lĩnh vực của nền kinh tế ở tầm vĩ mô, hoạt động đầu tư có thể
chia thành:
- Đầu tư tài chính: Là hình thức đầu tư dưới dạng cho vay hoặc mua các
chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước ( gửi tiền vào các ngân hàng,
mua trái phiếu… ) hoặc hưởng lãi suất tuỳ theo kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của công ty hiện hành ( cổ phiếu cty, trái phiếu công ty ). Đầu tư
SVTH: Đào Mạnh Hoàng Lớp: Kinh tế Quản lý đô thị 49
6
tài chính không trực tiếp tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật mới cho nền kinh tế
song đây là một trong những nguồn cung cấp vốn quan trọng cho hoạt động
đầu tư phát triển. Do đó đầu tư tài chính còn gọi là sự đầu tư di chuyển.
- Đầu tư thương mại: Là hình thức đầu tư dưới dạng bỏ tiền vốn mua hàng
hóa để bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá mua và giá
bán. Đầu tư thương mại nói chung không tạo ra tài sản cho nền kinh tế, song
lại có vai trò rất quan trọng đối với quá trình lưu thông hàng hoá, thúc đẩy sản
xuất kinh doanh, thúc đẩy các hoạt động đầu tư phát triển .
- Đầu tư phát triển: là hoạt động đầu tư mà trong đó người có tiền bỏ tiền
ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm
tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và các hoạt động xã hội khác, là điều kiện
chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội.
Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã
hội, mua sắm trang thiết bị, bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện
các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm
duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho
nền kinh tế xã hội.
1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ
HẠ TẦNG ĐÔ THỊ
Hoạt động đầu tư đầu tư phát triển CSHT đô thị là một bộ phận của đầu
tư phát triển do vậy nó cũng mang những đặc điểm của đầu tư phát triển .
- Đòi hỏi vốn lớn, ứ đọng trong thời gian dài: hoạt động đầu tư phát triển
CSHT đô thị đòi hỏi một số lượng vốn lao động, vật tư lớn . Nguồn vốn này
nằm khê đọng trong suốt quá trình đầu tư . Vì vậy trong quá trình đầu tư
chúng ta phải có kế hoạch huy động và sử dụng nguồn vốn một cách hợp lý
đồng thời có kế hoạch phân bổ nguồn lao động , vật tư thiết bị phù hợp đảm
bảo cho công trình hoàn thành trong thời gian ngắn chồng lãng phí nguồn lực.
SVTH: Đào Mạnh Hoàng Lớp: Kinh tế Quản lý đô thị 49
7
- Thời gian dài với nhiều biến động: thời gian tiến hành một công cuộc
đầu tư cho đến khi thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều
năm tháng với nhiều biến động xảy ra.
- Có giá trị sử dụng lâu dài: Các thành quả của hoạt động đầu tư phát
triển CSHT đô thị đa số là các công trình xây dựng do vậy có giá trị sử dụng
lâu dài.
- Cố định: Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển CSHT đô thị là
các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng cho
nên các điều kiện về địa lý, địa hình có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện
đầu tư, cũng như việc phát huy kết quả đầu tư . Vì vậy cần được bố trí hợp lý
địa điểm xây dựng đảm bảo các yêu cầu về an ninh quốc phòng, phải phù hợp
với kế hoạch, quy hoạch bố trí tại nơi có điều kiện thuận lợi, để khai thác lợi
thế so sánh của vùng, quốc gia, đồng thời phải đảm bảo được sự phát triển cân
đối của đô thị, của vùng lãnh thổ .
- Liên quan đến nhiều ngành: hoạt động đầu tư phát triển CSHT đô thị
rất phức tạp liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Diễn ra không những
ở phạm vi một địa phương mà còn nhiều địa phương với nhau. Vì vậy khi tiến
hanh hoạt động này, cần phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các ngành, các cấp
trong quản lý quá trình đầu tư, bên cạnh đó phải qui định rõ phạm vi trách
nhiệm của các chủ thể tham gia đầu tư, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo được tính
tập trung dân chủ trong quá trình thực hiện đầu tư.
1.4. LÝ LUẬN VỀ VỐN VÀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN
1.4.1. Khái niệm về vốn và công tác huy động vốn
Khái niệm về vốn: Vốn là một khối lượng tiền tệ nào đó được đưa vào
lưu thông với mục đích kiếm lời. Số tiền đó được sử dụng muôn hình muôn
vẻ nhưng suy cho cùng là để mua sắm tư liệu sản xuất và để trả công cho
SVTH: Đào Mạnh Hoàng Lớp: Kinh tế Quản lý đô thị 49
8
người lao động nhằm hoàn thành công việc sản xuất kinh doanh hoặc dịch vụ
nào đó với mục đích là thu về số tiền lớn hơn.
Vốn đầu tư chính là tiền tích luỹ của xã hội của các cơ sở sản xuất kinh
doanh, dịch vụ là vốn huy động của dân và vốn huy động từ các nguồn khác,
được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm
lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hộ
Nguồn vốn chính là nơi mà từ đó có thể khai thác được một số lượng
vốn nào đó để phục vụ cho nhu cầu của các hoạt động kinh tế xã hội
Huy động vốn: là việc tìm ra một nguồn tiền dùng để thực hiện một ý
tưởng hay dự án nào đó.
1.4.2. Các yếu tố tác động đến công tác huy động vốn đầu tư:
1.4.2.1. Mối quan hệ giữa thu nhập và tiết kiệm
Tổng tiết kiệm trong nước mà mỗi quốc gia dù được hình thành từ các
nguồn tiết kiệm của chính phủ, dân cư, hay tiết kiệm của các doanh nghiệp thì
chúng đều có chung nguồn gốc là bộ phận của GDP, do việc tăng trưởng nền
kinh tế quyết định khả năng tiết kiệm trong nước. Sự tăng trưởng kinh tế với
tốc độ cao, ổn định tạo ra mức thu nhập bình quân đầu người cao sẽ là tiền đề
vững chắc cho việc mở rộng tiết kiệm trong mỗi quốc gia. Điều này có nghĩa
là thu nhập đóng vai trò then chốt quyết định đến tiết kiệm. Một nền kinh tế
thấp kém, tốc độ tăng trưởng chậm, thiếu ổn định và thu nhập bình quân đầu
người thấp sẽ không có hoặc rất ít khả năng tiết kiệm. Tuy nhiên thu nhập
không thể coi là yếu tố duy nhất tác động đến tiết kiệm. Theo cách hiểu thông
thường tiết kiệm là phần còn lại của thu nhập sau khi đã đảm bảo cho tiêu
dùng thiết yếu. Điều này cho thấy việc phân tích mối quan hệ giữa thu nhập
và tiết kiệm không thể bỏ qua tác động của tiêu dùng. Nếu thu nhập tăng tiêu
dùng giảm dẫn đến tiết kiệm tăng như vậy khả năng đầu tư giảm và ngược lại.
1.4.2.2 Mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư.
SVTH: Đào Mạnh Hoàng Lớp: Kinh tế Quản lý đô thị 49
9
Tiết kiệm và đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ
- Tiết kiệm là tiền đề của đầu tư. Đầu tư phải cần đến vốn đầu tư. Vốn
này do nguồn tiết kiệm hình thành, tiết kiệm quá ít không đảm bảo đủ vốn cho
nhu cầu đầu tư, sẽ hạn chế đến quá trình mở rộng hoạt động đầu tư và rất khó
hoặc không thể đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế mong muốn. Tiết kiệm
quá nhiều tạo ra lực cản với quá trình mở rộng đầu tư. Cần phải có sự phù hợp
giữa tiết kiệm, đầu tư tăng trưởng của từng nước và từng giai đoạn phát triển
của đất nước.
- Đầu tư sẽ tạo ra cơ sở để mở rộng nguồn tiết kiệm vì bất kỳ người đầu
tư nào khi cảm thấy cơ hội đầu tư có lợi hay có hiệu quả về kinh tế - xã hội thì
người ta sẵn sàng đầu tư không phân biệt đầu tư đó thuộc loại hình sở hữu nào
và đầu tư theo hình thức trực tiếp hay đầu tư gián tiếp. Hiệu quả của đầu tư
đạt được do kết quả đầu tư mang lại sẽ là cơ hội để huy động được các nguồn
tiết kiệm cho đầu tư kế tiếp với quy mô lớn hơn.
- Để tiết kiệm biến thành đầu tư có nhiều nhân tố tác động suy cho cùng
có hai nhân tố cơ bản là an toàn và lợi ích. Đồng thời đầu tư là cơ sở để tạo ra
tiết kiệm với quy mô lớn hơn cũng bị hai nhân tố cơ bản nói trên chi phối và
quyết định.
- Hoạt động tiết kiệm và đầu tư trong những trường hợp cụ thể có thể độc
lập với nhau vì tiết kiệm bị động phụ thuộc vào yếu tố khác nữa.
1.4.2.3. Yếu tố giao lưu giữa các dòng vốn.
Quá trình đi tìm các biện pháp rút ngắn khoảng cách để người tiết kiệm và
người đầu tư gặp nhau trực tiếp hoặc gián tiếp, tiến hành mua bán quyền sử
dụng vốn, sau khi thoả thuận với nhau về giá cả của vốn và các điều kiện ràng
buộc khác dẫn đến hình thành và phát triển thị trường tài chính là một yếu tố
khách quan của nền kinh tế thị trường. Nó đóng vai trò quan trọng thúc đẩy
giao lưu vốn để phát triển kinh tế xã hội. Vai trò của thị trường tài chính :
SVTH: Đào Mạnh Hoàng Lớp: Kinh tế Quản lý đô thị 49
10
- Đóng vai trò to lớn trong việc thu hút, hoạt động các nguồn tài chính
nhàn rỗi để tài trợ cho nhu cầu vốn đang bị thiếu hụt của những người chi tiêu
hay đầu tư góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
- Đóng vai trò quan trọng thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn
tài chính tạo điều kiện cho việc giao lưu vốn từ khu vực kinh doanh hay chi
tiêu kém hiệu quả sang lĩnh vực có hiệu quả hơn.
- Góp phần tạo điều kiện giao lưu vốn trong nước với nước ngoài đồng
thời có thể thu hút được vốn đầu tư từ nước ngoài vào.
1.4.3. Các nguồn huy động vốn đầu tư
1.4.3.1. Nguồn vốn trong nước
1.4.3.1.1. Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước
Về hình thức: Ngân sách Nhà nước là một bảng tổng hợp các khoản thu
và các khoản chi của Nhà nước trong một năm tài chính theo dự toán ngân
sách đã duyệt.
Về bản chất kinh tế thì ngân sách Nhà nước thể hiện các quan hệ kinh tế
giữa Nhà nước với các doanh nghiệp, các đơn vị hành chính sự nghiệp, các
tầng lớp dân cư, các tổ chức trung gian tài chính, thị trường tài chính.
Vốn huy động từ ngân sách Nhà nước là bộ phận quan trọng trong toàn
bộ khối lượng đầu tư, nó có vị trí rất quan trọng trong việc tạo ra môi trường
đầu tư thuận lợi nhằm thúc đẩy mạnh đầu tư của mọi thành phần kinh tế theo
định hướng chung của kế hoạch, chính sách và pháp luật. Đồng thời trực tiếp
tạo ra năng lực sản xuất của một số lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, đảm
bảo theo đúng định hướng của chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội. Ngân sách Nhà nước có vai trò quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội.
Nó được thể hiện trong ba nội dung cơ bản sau:
SVTH: Đào Mạnh Hoàng Lớp: Kinh tế Quản lý đô thị 49
11
- Thứ nhất: Kích thích sự tăng trưởng kinh tế. Nhà nước sẽ sử dụng thuế
và chi đầu tư để hướng dẫn kích thích và tạo sức ép đối với các chủ thể của
các hoạt động kinh tế. Vận dụng thuế suất hợp lý sẽ có tác dụng hướng dẫn,
kích thích các thành phần kinh tế mở rộng hoạt động kinh doanh, tạo ra môi
trường kinh tế mở rộng hoạt động kinh doanh, tạo ra môi trường cạnh tranh
lành mạnh, thu hút vốn đầu tư và định hướng đầu tư của khu vực doanh
nghiệp.
- Thứ hai: Điều tiết thị trường giá cả, chống lạm phát. Nhà nước sẽ can
thiệp vào thị trường thông qua các khoản chi của ngân sách Nhà nước dưới
hình thức tài trợ vốn, trợ giá và sử dụng các quỹ Nhà nước về hàng hoá và tài
chính.
- Thứ ba: Điều tiết thu nhập để thực hiện công bằng xã hội bằng cách áp
dụng mức thuế thu nhập.
Nguồn ngân sách bao gồm: Nguồn thu trong nước và nguồn thu bổ sung từ
bên ngoài (chủ yếu thông qua nguồn vốn ODA và một số ít là vay nợ nước ngoài).
Do thuế là một nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước (chiếm hơn
90%) cho nên việc huy động vốn ngân sách Nhà nước phụ thuộc rất nhiều vào
chính sách thuế. Cải cách thuế có tác động trực tiếp tới ngân sách Nhà nước.
Việc miễn giải thuế cần đi đôi với việc mở rộng phạm vi và đối tượng nộp
thuế nhằm bảo đảm quy mô của ngân sách Nhà nước.
1.4.3.1.2. Nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp Nhà nước
Đây là nguồn vật lực to lớn nhất của Nhà nước, nguồn vốn này do các
DNNN quản lý. Ngoài ra nguồn tài sản công ở dạng tiềm năng là tài sản Nhà
nước do các cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, cơ
quan Đảng đoàn thể quản lý. DNNN quản lý những tài nguyên quốc gia nơi
SVTH: Đào Mạnh Hoàng Lớp: Kinh tế Quản lý đô thị 49
12
có giá trị to lớn. Để huy động được nguồn vốn này thì đòi hỏi phải có sự quản
lý hiệu quả ở các DNNN.
Hiện nay nguồn tích luỹ từ các doanh nghiệp còn rất hạn chế bởi lẽ các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiệu quả còn thấp công nghệ chưa được
đổi mới, chất lượng của sản phẩm chưa cao nên khả năng tiết kiệm cho đầu tư
chưa nhiều. Mặt khác vốn khấu hao chưa được quản lý nghiêm ngặt và đầy
đủ. Vì thế để huy động được nguồn vốn lớn trong DNNN thì đòi hỏi Nhà
nước phải tiến hành sửa đổi và ban hành các chính sách để khuyến khích
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, để có thể đầu tư phát triển sản xuất.
1.4.3.1.3. Nguồn vốn huy động từ tư nhân:
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần
tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ
bộ, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất
lớn mà chưa được huy động triệt để.
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ
trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hay do tích
luỹ truyền thống. Nhìn tổng quan nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không
phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt … nguồn vốn này xấp
xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Vốn
của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô
của các nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào:
- Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển
thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp).
- Tập quán tiêu dùng của dân cư.
- Chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu
nhập và các khoản đóng góp với xã hội.
SVTH: Đào Mạnh Hoàng Lớp: Kinh tế Quản lý đô thị 49
13
1.4.3.1.4. Thị trường vốn:
Thị trường vốn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế
của các nước có nền kinh tế thị trường. Nó là kênh bổ sung các nguồn vốn
trung và dài hạn cho các chủ đầu tư - bao gồm cả Nhà nước và các loại hình
doanh nghiệp. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một
trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi
nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ
trung ương và chính quyền địa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho
nền kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động
nào có thể làm được.
1.4.3.2. Nguồn vốn nước ngoài
1.4.3.2.1. Vốn ODA
Vốn ODA: bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn
lại hoặc tín dụng ưu đãi của các chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ
chức phi chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc, các tổ chức
tài chính quốc tế dành cho các nước đang và chậm phát triển. Đây là nguồn
vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp
với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ
khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác. Ngoài
các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay tương đối lớn, bao giờ trong
ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất
25%.
Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường di
kèm các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án,
thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ
hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài
chính tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng
SVTH: Đào Mạnh Hoàng Lớp: Kinh tế Quản lý đô thị 49
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét