Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014

GIỚI THIỆU NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN TRUNG QUỐC

Phạm Quang Diệu 2002
GIỚI THIỆU NÔNG NGHIỆP NÔNG
THÔN TRUNG QUỐC.
Phạm Quang Diệu - 2002
2
Dân số: 1,26 tỷ
Dân số nông thôn: 887 triệu
Lao động nông nghiệp: 333 triệu
GDP: 1117 tỷ USD
GDP nông nghiệp: 117 tỷ USD
Đất nông nghiệp: 130 triệu ha
Đất nông nghiệp trên 1 lao động: 0,16 ha
Xuất khẩu nông sản: 23,1 tỷ USD/năm
Nhập khẩu nông sản: 20,9 tỷ USD/năm
3
Sản lượng ngũ cốc hàng năm các vùng của
Trung Quốc
1. Môi trường kinh tế vĩ mô
Chính sách cải cách và mở cửa năm 1978 đã giúp kinh tế Trung Quốc duy
trì tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Thập kỷ 80, GDP tăng trưởng ở mức
12%/năm, thập kỷ 90 khoảng 9,5%/năm. Mặc dù khủng hoảng tài chính tiền tệ
Đông Nam á và kinh tế toàn cầu đi vào giai đoạn trì trệ đã ảnh hưởng đến nền kinh
tế Trung Quốc, song tăng trưởng vẫn ở mức cao. Năm 2000 GDP đạt 8%, và năm
2001 là 7%. Suy thoái kinh tế toàn cầu đã và sẽ tăng sức ép đối với tương lai kinh
4
Sản lượng thịt hàng năm các vùng của
Trung Quốc
tế của Trung Quốc, nhưng tình trạng này có thể sẽ không nghiêm trọng vì công
nghệ thông tin (ngành đầu tiên bị tác động bởi suy thoái kinh tế toàn cầu) không
chiếm phần lớn trong xuất khẩu Trung Quốc. Thêm vào đó, tác động của suy thoái
sẽ không lớn do chi tiêu trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài đều tăng. Cho
dù nền kinh tế có tăng trưởng chậm hơn mục tiêu Chính phủ đề ra, Trung Quốc
vẫn vượt xa tất cả các nước châu á khác, kể cả liên minh Châu Âu và Mỹ.
Biểu 1: Tốc độ tăng trưởng GDP thế giới và Trung Quốc
0
2
4
6
8
10
12
1992-1997 1998-2003 2004-2009
Trung Quèc
ThÕ giíi
Nguồn: USDA. 2000
Chính phủ Trung Quốc đã chống lại sức ép phá giá đồng Nhân dân tệ
(NDT) trong khi đồng tiền của nhiều đối tác thương mại và cạnh tranh đều đã phá
giá mạnh. Để tạo điều kiện cho người xuất khẩu và duy trì một đồng tiền mạnh,
Trung Quốc đã thi hành một số chính sách có lợi cho xuất khẩu. Năm 1991, Chính
phủ xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu, nhưng vẫn khuyến khích xuất khẩu thông qua giảm
thuế, cung cấp các khoản vay lãi suất thấp và thi hành các chương trình trợ cấp
gián tiếp khác. Năm 2000, xuất khẩu Trung Quốc tăng 27,8% và nhập khẩu tăng
35,8% so với năm 1999.
Trung Quốc tiếp tục duy trì chính sách tài khoá năng động, tăng chi tiêu
nhằm phát triển cơ sở hạ tầng và đẩy mạnh cầu trong nước. Trong những năm gần
đây, Chính phủ đã thực hiện một loạt chính sách kích cầu tiêu dùng như giảm tỉ lệ
lãi suất tiết kiệm, tăng tín dụng và tăng ngày nghỉ. Nhờ những biện pháp này, tốc
độ chi tiêu của người tiêu dùng trong 3 năm qua tăng nhanh hơn GDP. Đầu tư
nước ngoài (FDI) cũng đã tăng mạnh trong năm 2000 và năm 2001. Trung Quốc
gia nhập WTO càng thu hút FDI mạnh.
Mặc dù vậy, tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc vẫn không đồng đều, chỉ tập
trung ở vùng thành thị và duyên hải phía Đông. ở phần lớn các vùng còn lại của
Trung Quốc, đặc biệt phía Tây, mức tăng trưởng và hiện đại hoá vẫn rất trì trệ
5
ngay cả trong những năm Trung Quốc đạt mức tăng trưởng cao nhất. Đặc biệt
vùng hải đảo như An Huy, Tứ Xuyên và Thiểm Tây bị tụt hậu so với các vùng
duyên hải như Quảng Đông, Phúc Kiến, Triết Giang và Giang Tô.
Nông nghiệp tăng trưởng chậm hơn các ngành khác nên những vùng dựa
chủ yếu vào nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. Những năm gần đây ngành nông
nghiệp trì trệ là một trong những nguyên nhân dẫn đến khoảng cách thu nhập ngày
càng tăng giữa thành thị và nông thôn. Mức tăng thu nhập ròng bình quân đầu
người nông thôn giảm liên tục trong 4 năm trở lại đây, chỉ còn ở mức 2,1% năm
2000, đạt 2253 NDT. Trong khi đó năm 2000 thu nhập thành thị tăng 6,4%, đạt
6280 NDT .
Theo Hồ An Cương (Hu Angang)
1
tăng trưởng kinh tế chịu ảnh hưởng
mạnh bởi hai nhân tố. Một là ảnh hưởng trực tuyến do vốn đầu tư cho sản xuất
tăng sẽ giúp nền kinh tế tăng trưởng mạnh trong một thời gian ngắn mà không cần
những thay đổi về cơ cấu ngành hay công nghệ. ảnh hưởng thứ 2 là ảnh hưởng của
năng suất, ở đây sáng kiến công nghệ, trình độ quản lý và cơ cấu của các ngành
công nghiệp cùng với cải tổ tổ chức là động lực tăng trưởng về dài hạn. Trong
kinh tế học, nhân tố ảnh hưởng đầu sẽ dẫn đến sự chuyển dịch năng lực trên
đường giới hạn khả năng sản xuất còn nhân tố sau sẽ làm dịch chuyển đường giới
hạn khả năng sản xuất dẫn đến tăng năng lực sản xuất.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh của Trung Quốc sau khi tiến hành cải cách
và mở cửa dựa trên sự gia tăng năng suất tổng thể . Theo số liệu thống kê của Cục
Thống kê quốc gia, từ năm 1975-1995, vốn đầu tư đóng góp 55% vào tăng trưởng
kinh tế và TPF là 29% (So với các tính toán khác, con số 29% là khá cao nhưng so
với con số 40% của ngân hàng thế giới thì còn thấp). Tuy nhiên, trước giai đoạn
này, TPF thực tế là âm.
Trong tương lai gần, tăng trưởng kinh tế nhờ nhân tố lao động chưa chắc đã
vượt quá 1%. Hiện nay Trung Quốc đã đạt mức tiết kiệm cao 40% và có tỷ lệ đầu
tư trong nước lớn, nên không thể hy vọng nhiều vào con đường phát triển dựa trên
nguồn vốn đầu tư nữa. Vì thế, nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của
Trung Quốc trong dài hạn là TPF.
TPF cao là kết quả của chính sách nghiêm ngặt và một bộ máy quản lý tốt.
Để có thể tích luỹ và tiết kiệm nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên cần có một
hệ thống hoạt động có hiệu quả. Đây cũng là biện pháp để Trung Quốc bù đắp
1
Hồ An Cương là giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc, giáo sư
của trường đại học Thanh Hoa.
6
những thiệt hại khi hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Theo Hồ An Cương, muốn
nâng cao hơn nữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo hiệu quả và bền vững,
Trung Quốc cần phải làm 3 việc sau:
• Đầu tiên và quan trọng nhất là cần phát triển hơn nữa những chính sách và
quản lý hợp lý. Một môi trường kinh tế có chính sách hợp lý và hệ thống quản
lý hiệu quả sẽ đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng mà không làm chậm quá trình tăng
trưởng. Vai trò của chính phủ và các thành phần trong xã hội như các doanh
nghiệp, phường xã, quần chúng và thậm chí cả các tổ chức quốc tế cũng có tầm
quan trọng lớn. Chính phủ cần kết nối chặt chẽ với xã hội. Điều này có thể
mang lại tầm hợp tác mới giữa Chính phủ với các doanh nghiệp và người dân
để phát triển cơ chế thông tin hai chiều, nâng cao hiệu quả của chi tiêu công
cộng và mang lại lợi ích tốt nhất cho người dân.
• Nâng cao năng lực quản lý thông qua cải tổ hệ thống hành chính, xoá bỏ tham
nhũng, mở cửa thị trường để tăng khả năng cạnh tranh, xoá bỏ độc quyền.
• Cuối cùng, minh bạch hơn nữa công cuộc cải tổ và cung cấp nhiều thông tin
cho dân chúng, công bố một cách rõ ràng và để nhân dân biết về chức năng
trách nhiệm của các cơ quan quản lý.
Bước ngoặt trong tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc sẽ dựa trên hiệu quả
cao, công bằng, ổn định và tỷ lệ thất nghiệp thấp.
2. Cải cách là chìa khoá để tăng trưởng bền vững
Trong những năm tới, mặc dù nền kinh tế toàn cầu có thể tiếp tục suy thoái
nhưng Trung Quốc vẫn tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao. Để bù lại mức
cầu xuất khẩu giảm, Chính phủ dự kiến thi hành một loạt chính sách kích cầu
trong nước. Trong ngân sách công bố cho năm 2001, Chính phủ tăng đầu tư công
cộng và chi tiêu của Chính phủ lên 9,3%. Chính phủ tiếp tục đề ra những chính
sách và chương trình mới khuyến khích tiêu dùng trong nước như tăng 30% lương
cán bộ và thực hiện chương trình an sinh xã hội cho cán bộ thành thị. Thêm vào
đó, việc Trung Quốc gia nhập WTO giúp nước này thu hút thêm đầu tư FDI và
đẩy mạnh cầu trong nước (Trung Quốc vốn đã là nước thu hút FDI lớn thứ ba thế
giới, khoảng 350 tỉ USD, chỉ xếp sau Mỹ và Anh).
7
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã đạt được những thành công nhất
định trong cải cách. Số lượng các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) lớn và trung
bình bị thua lỗ giảm từ 6599 năm 1997 xuống còn 2501 năm 2000 nhờ sát nhập
các doanh nghiệp thua lỗ với các doanh nghiệp làm ăn có lãi. Lợi nhuận mà các
doanh nghiệp này mang lại tăng 150% trong năm 2000, đạt 242 tỉ NDT so với 97
tỉ NDT năm 1999, chủ yếu là nhờ giá dầu lửa tăng cao khiến cho các công ty dầu
lửa khổng lồ của nhà nước đạt lợi nhuận lớn, chiếm 63% tổng lợi nhuận của 10
DNNN lớn nhất. Cải cách ngân hàng cũng đang được tiến hành với việc thiết lập
các tập đoàn quản lý tài sản để thu hút khoản vay khó đòi từ các ngân hàng nhà
nước. Tuy nhiên, hệ thống DNNN cồng kềnh, kém hiệu quả, trì trệ và hệ thống
ngân hàng có những khoản nợ khó đòi khổng lồ là những thách thức và rủi ro lớn
đối với nền kinh tế của Trung Quốc.
3. Tăng trưởng kinh tế và sản xuất nông nghiệp
Nền kinh tế tăng trưởng nhanh sẽ ảnh hưởng cơ cấu cung-cầu lương thực
của Trung Quốc. Thu nhập tăng làm thay đổi cơ cấu nhu cầu tiêu dùng lương thực,
thực phẩm. Cầu về thịt, hoa quả, rau và các hàng hoá giá trị cao sẽ tăng nhanh
chóng. Tiêu dùng bình quân đầu người các loại ngũ cốc cơ bản như lúa mỳ, gạo sẽ
không tăng nhanh và thậm chí có thể giảm khi người tiêu dùng thay thế bằng các
mặt hàng khác giá trị cao hơn. Thu nhập thành thị tăng sẽ tiếp tục tăng nhu cầu
tiêu thụ các sản phẩm chế biến chất lượng cao.
Tự do hoá thương mại và mở cửa biên giới sẽ làm tăng sức ép buộc ngành
nông nghiệp phải cải cách. Các nhà sản xuất có thể sẽ ứng phó được với những
điều kiện thị trường quốc tế. Và trên thực tế, họ đã bắt đầu thay đổi. Chẳng hạn
như các vùng rộng lớn ở tỉnh Sơn Đông đã chuyển từ sản xuất ngũ cốc sang trồng
rau để cung cấp rau rẻ và các sản phẩm nông nghiệp phi lương thực khác cho
người tiêu dùng Nhật Bản. Nhập khẩu nông sản Trung Quốc rẻ tăng lên có tác
động lớn đến nhà sản xuất Nhật Bản, buộc Nhật Bản phải bảo hộ nhập khẩu tạm
thời một số mặt hàng nông sản Trung Quốc như nấm, hành tươi và sắp tới là chiếu
tatami.
Khi các hoạt động phi nông nghiệp tiếp tục phát triển, sản xuất nông nghiệp
phải cạnh tranh nhiều hơn về giá các đầu vào quan trọng như đất, lao động và
nước, đặc biệt là ở một số tỉnh duyên hải có trình độ hiện đại hoá cao. Nông dân sẽ
lựa chọn cây trồng, giống cây và phương thức sản xuất phù hợp để tăng lợi nhuận.
Khi thu nhập nông thôn tăng cùng với mức tăng của thu nhập phi nông nghiệp thì
nông dân có thể chuyển sang mua lương thực thiết yếu thay vì tự trồng, tạo điều
kiện cho nông dân chuyển đổi sản xuất từ tự cung tự cấp sang hàng hoá, phát triển
8
cây thương phẩm có giá trị cao. Đồng thời, Trung Quốc có thể sẽ phụ thuộc nhiều
hơn vào thị trường thế giới về cung lương thực.
4. Chính sách nông nghiệp
Trong quá trình công nghiệp hoá, các nền kinh tế thường có xu hướng
chuyển từ chính sách đánh thuế nông nghiệp sang bảo hộ nông nghiệp. Chính sách
nông nghiệp của Trung Quốc còn nhiều chỗ chưa thống nhất. Trong khi đường lối
của chính quyền Trung ương là bảo hộ sản xuất nông nghiệp, các quan chức địa
phương lại tăng phí và thuế nông nghiệp để giảm bớt gánh nợ chồng chất của các
chính quyền địa phương. Việc đánh nhiều loại thuế cao vào sản xuất nông nghiệp
ở các địa phương đang mâu thuẫn trực tiếp với chính sách trợ cấp nông nghiệp của
Chính phủ trung ương.
Chính phủ Trung Quốc cũng tìm cách đẩy mạnh phát triển nông nghiệp
bằng cách phân bổ đầu tư công cộng nhiều hơn cho các dự án có lợi cho nông
nghiệp, đặc biệt là việc nâng cấp hệ thống trữ nước và tưới tiêu để tăng diện tích
tưới. Trung Quốc cũng đầu tư vào nghiên cứu và phổ biến công nghệ tưới tiết
kiệm nước và nghiên cứu các loại giống cải tiến cao sản và chất lượng cao. Ngoài
việc đầu tư vào kết cấu hạ tầng để tăng sản xuất nông nghiệp, ngân hàng trung
ương Trung Quốc tăng khoản vay cho các tổ chức tín dụng nông thôn khoảng 20 tỉ
NDT (2,4 triệu USD) đầu năm 2001 để tạo điều kiện cho nông dân Trung Quốc
tiếp cận với tín dụng để mua giống chất lượng cao, công nghệ tưới tiết kiệm nước
và những đầu vào hiện đại khác nhằm tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Ngoài
những biện pháp này, Chính phủ đang tiến tới giảm gánh nặng về thuế cho các hộ
nông dân bằng cách thiết lập những nguyên tắc đánh mã thuế thống nhất cho tất cả
các địa phương.
5. Thị trường lao động, đất đai và tín dụng nông thôn
Khi nền kinh tế Trung Quốc phát triển và mở cửa, các thể chế và chính sách
ảnh hưởng đến hệ thống phân phối và giá vật tư quan trọng của sản xuất nông
nghiệp sẽ thay đổi. Các chính sách và thể chế không khuyến khích dịch chuyển lao
động đang mất dần tác dụng. Hiện tượng thuê đất không còn phổ biến và do luật
tăng cường an toàn sử dụng đất và quyền thuê đất được thiết lập. Các hình thức tín
dụng hỗ trợ địa phương phát triển nhanh, ngày càng có nhiều hộ nông dân có thể
tự đầu tư bằng tiết kiệm từ các nguồn thu phi nông nghiệp hoặc từ nguồn đi vay.
Những thay đổi gần đây trong thể chế và chính sách đất đai, lao động và thị
trường tín dụng dẫn đến ngày càng có nhiều nông dân tận dụng được môi trường
9
kinh tế mới và thực hiện cải cách công nghệ sản xuất nông nghiệp để tăng thu
nhập. Chẳng hạn như nông dân đang chuyển sang sản xuất nông sản thương phẩm
trong nhà kính, đặc biệt là phía Bắc Trung Quốc. Nhưng để xây dựng một nhà
kính trồng cây thương phẩm (dưa hấu hoặc những rau quả giá trị cao khác), nông
hộ cần có môi trường thuận lợi như tiếp cận tín dụng, an toàn sử dụng đất và thông
tin thị trường chính xác để tạo động lực, tăng niềm tin cho họ đầu tư phát triển sản
xuất. Những tiến triển gần đây trong thị trường lao động, đất đai và tín dụng đã có
những đóng góp lớn, tạo môi trường thuận lợi cho nông thôn Trung Quốc phát
triển.
5.1. Thị trường lao động nông thôn
Trong vòng 20 năm qua, thị trường lao động nông thôn và cơ cấu việc làm
thay đổi nhanh chóng khi hàng triệu người lao động nông thôn di cư sang các
vùng khác để tìm việc làm trong các hoạt động phi nông nghiệp. Giai đoạn 1985-
1999, lao động nông thôn có việc làm ở các doanh nghiệp nông thôn địa phương
tăng từ 67 triệu năm đến 127 triệu, (từ 18% đến 28% trong khu vực nông thôn).
Ước tính, giữa thập kỷ 90, số lượng người di cư từ nông thôn ra thành thị khoảng
30 đến 100 triệu người. Theo số liệu điều tra dân số nông nghiệp quốc gia năm
1996, khu vực thành thị thu hút khoảng 57 triệu người lao động nông thôn. Tuy
nhiên, nhiều người cho rằng dự báo này còn thấp, thậm chí là quá thấp vì không
tính hết những người làm việc trong nhà hàng, xây dựng, buôn bán, vận tải và dịch
vụ tiếp thị. Nếu tính hết những nguồn này, con số có thể lên tới 100 triệu người.
Trước thập kỷ 90, nhiều chuyên gia cho rằng hàng loạt chính sách và thể
chế đã không khuyến khích người lao động nông thôn chuyển sang các hoạt động
phi nông nghiệp. Hầu hết người di cư nông thôn đến khu vực thành thị trong thập
kỷ 80 đều phải đối mặt với chính sách không khuyến khích di cư. Các chiến dịch
chống di cư và các chính sách khác đã hạn chế người di cư mang theo gia đình của
họ đến thành thị, không khuyến khích người lao động nông thôn tìm việc làm ở
thành phố. Song người lao động thành thị không muốn làm các công việc khó
khăn nguy hiểm và lương thấp, trong khi tình trạng thiếu việc làm ngày càng nặng
nề ở nông thôn, vì thế dòng di cư lao động từ nông thôn ra thành thị vẫn tiếp tục
tăng.
Nhiều luật lệ đã hạn chế chuyển lao động nông thôn sang các hoạt động phi
nông nghiệp, đặc biệt là sự chuyển dịch của cả hộ gia đình. Vì người lãnh đạo địa
phương đóng vai trò quan trọng trong việc tuyển dụng và sắp xếp công việc nên
mối quan hệ gia đình hoặc chính trị có vai trò quan trọng đối với khả năng kiếm
việc làm trong các doanh nghiệp nông thôn. Ngoài ra, tiền gửi và phí xin việc làm
10
công nghiệp nông thôn cũng là rào cản đối với sự chuyển dịch lao động sang các
hoạt động phi nông nghiệp. Mặt khác, do các hộ gia đình mất quyền sử dụng đất
nếu rời khỏi làng nên chính sách cho thuê đất cũng không khuyến khích di cư lao
động ra khỏi khu vực nông nghiệp. Chính sách giao hạn ngạch buôn bán ngũ cốc
(nông dân cam kết bán một lượng ngũ cốc nhất định cho nhà nước), cũng khuyến
khích nông dân làm nông nghiệp.
Đầu thập niên 90, công cuộc cải cách chính sách thúc đẩy lao động nông
thôn sang các hoạt động phi nông nghiệp bắt đầu được tiến hành. Trọng tâm của
cải cách là chủ trương “li nông bất li hương”, các lãnh đạo Trung Quốc khuyến
khích người lao động nông thôn tìm việc làm ở những thị trấn lân cận chứ không
phải các thành phố. Chính sách này được ủng hộ vì một lực lượng lao động lớn ở
nông thôn muốn tăng cơ hội việc làm mà không đe doạ đến sự ổn định của khu
vực thành thị. Thêm vào đó, hầu hết doanh nghiệp nông thôn không còn phân phối
việc làm hoặc ưu tiên những người lao động có mối quan hệ với họ vì những
doanh nghiệp này phải đối mặt với môi trường cạnh tranh ngày càng tăng và buộc
phải sử dụng chính sách thuê lao động để tăng năng suất và giảm chi phí. An toàn
sử dụng đất cũng được tăng cường để các hộ gia đình nông thôn có người lao động
di cư không mất nhiều đất. Một vài tỉnh tuyên bố không áp dụng chính sách hạn
ngạch buôn bán lương thực bắt buộc. Trong những năm gần đây, một số làng đã
chủ động hơn trong việc tăng thu nhập cho nông dân từ những công việc phi nông
nghiệp, thường là bằng cách giảm chi phí tìm việc làm. Các văn phòng lao động
cấp huyện, thị trấn và làng ngày càng khuyến khích chuyển dịch lao động sang các
hoạt động phi nông nghiệp.
Cuối thập kỷ 90, nhận thức được tầm quan trọng của người lao động nông
thôn di cư làm các công việc nặng nhọc ở thành thị như xây dựng và thu nhặt rác,
khu vực thành thị đã triển khai chính sách tạo điều kiện cho người di cư sống và
làm việc ở thành phố như thành lập chợ lao động điểm hợp pháp và cấm bài trích
người di cư.
Những thay đổi trong thị trường lao động Trung Quốc ảnh hưởng đến sản
xuất nông nghiệp ở nhiều góc độ. Tốc độ tăng nhanh của việc làm phi nông nghiệp
có thể giúp giảm sức ép về lực lượng lao động dư thừa trong ngành nông nghiệp.
Thêm vào đó, nguồn thu nhập phi nông nghiệp giúp tăng của cải vật chất cho hộ
gia đình và cho phép nông hộ tự đầu tư bằng tiết kiệm. Thông tin nhận được từ
người lao động phi nông nghiệp, đặc biệt là những người di cư đến thị trấn nông
thôn và thành thị đã giúp nông dân thay đổi từ sản xuất các mặt hàng tự cung tự
cấp sang sản phẩm thương phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường ở xa.
11
5.2. Thị trường đất đai nông thôn
Nền kinh tế nông nghiệp Trung Quốc đang phải đối mặt với sự khan hiếm
đất. Báo cáo năm 1996 cho thấy diện tích đất trồng trọt ở Trung Quốc là dưới 100
triệu ha và đang giảm từ 95,67 triệu ha năm 1990 xuống còn 94,97 triệu ha năm
1995. Tiềm năng mở rộng đất trồng trọt ở Trung Quốc rất hạn chế. Việc sử dụng
đất cho công nghiệp thành thị, thương mại và nhà ở khiến cho đất cho nhu cầu
nông nghiệp ngày càng thu hẹp. Ước tính đến năm 2020, Trung Quốc có ít nhất
50% dân số sống ở vùng thành thị so với mức 36% năm 2000. Ngoài ra, vì lý do
gìn giữ môi trường Trung Quốc bắt đầu tách đất dễ bị suy thoái ra khỏi diện tích
đất nông nghiệp. Phần lớn đất này đang được biến thành đất ướt, rừng hoặc đồng
cỏ. Nếu tiếp tục tăng vụ thì rất khó để có thể bù đắp cho những thất thoát về quĩ
đất trong tương lai.
Nông dân Trung Quốc không có quyền sở hữu hoàn toàn đối với đất mà họ
đang sử dụng. Thay vào đó, đất thường do một nhóm tập thể sở hữu (khoảng 30-
40 người) hoặc làng sở hữu. Những người sở hữu có thể phân phối quyền sử dụng
các mảnh ruộng này cho các hộ gia đình thành viên. Một số quyền khác cũng được
trao cho hộ gia đình làm nông nghiệp, trong đó có quyền hưởng thụ thu nhập do
kinh doanh trên mảnh đất. Khi người quản lý tập thể hoặc làng thi hành quyền
phân phối lại đất thì các hộ gia đình nông dân có nguy cơ mất đất mà họ đang
trồng trọt; họ có thể hoặc không nhận được những mảnh đất tương đương để bù
lại. Các chính sách phân phối lại đất là nhằm đảm bảo quyền tiếp cận đất công
bằng. Song việc cân nhắc lại phân phối đất và đôi khi phân phối lại ở cấp độ làng
và tập thể có thể gây ra không ổn định sử dụng đất ở nông thôn Trung Quốc.
Các chính sách tăng cường an toàn sử dụng đất và mở rộng quyền chuyển
nhượng đất độc lập cho các nông hộ khác trở nên ngày càng phổ biến. Luật Quản
lý Đất năm 1998 trao quyền sử dụng đất 30 năm cho nông hộ và hạn chế việc phân
phối lại đất chỉ trong một số trường hợp đặc biệt. Tuy vậy, ngôn ngữ trong luật
xác định người quản lý phân phối lại đất rất mơ hồ. Trong khi đó, chính sách của
Chính phủ tăng an toàn sử dụng đất cho hộ gia đình lại không mơ hồ như những
chính sách phân phối lại đất trước đó. Việc quản lý đất đang thay đổi ở cấp độ địa
phương. Theo những cuộc điều tra và phỏng vấn, trong thập kỷ 90 ngày càng có
nhiều làng trao quyền cho thuê đất cho hộ gia đình nông thôn.
Việc thiếu bảo đảm an toàn sử dụng đất và hệ thống phân phối đất đã có
một số tác động xấu đến sản xuất nông nghiệp, không khuyến khích đầu tư xây
dựng cơ bản lâu dài. Ngoài ra, việc mất an ninh sử dụng đất và thiếu các quy định
chính thức điều tiết chuyển nhượng đất độc lập giữa các nông hộ cũng hạn chế sự
12
phát triển của thị trường cho thuê đất. Những chính sách này làm giảm năng suất
của đất do giảm đầu tư và không khuyến khích chuyển nhượng đất cho những
người sử dụng đất có khả năng nâng cao năng suất đất.
Chính sách sử dụng đất còn ảnh hưởng đến thị trường đầu vào nông nghiệp
quan trọng khác như tín dụng và lao động. Do nông hộ không sở hữu đất nên họ
không thể sử dụng làm thế chấp trên thị trường tín dụng. Thêm vào đó việc phân
bố lại đất làng cũng không khuyến khích nông hộ mạnh dạn ra đi tìm kiếm việc
làm phi nông nghiệp do sợ mất đất. Nỗi lo sợ mất đất cũng có thể hạn chế các hoạt
động thuê đất, gây khó khăn cho nông hộ trong việc chuyển lao động sang các
hoạt động phi nông nghiệp.
5.3. Thị trường tín dụng nông thôn
Hiện nay ở Trung Quốc tín dụng nông thôn thiếu đã và đang hạn chế đầu tư
và năng suất nông nghiệp. Khả năng tiếp cận tín dụng tác động lớn đến quá trình
ra quyết định sản xuất nông nghiệp của các nông hộ, cho phép nông dân mua hạt
giống, phân bón và thuốc trừ sâu chất lượng cao. Ngoài ra, họ còn cần vốn để đầu
tư vào cơ sở hạ tầng cố định, lâu dài như nhà kính hoặc công nghệ tưới tiết kiệm
nước. Do các hộ gia đình nông nghiệp ở Trung Quốc không sở hữu đất nên không
có vật thế chấp để đảm bảo vay vốn. Các tổ chức tín dụng chính thức ở Trung
Quốc cũng chưa phát triển đầy đủ và chủ yếu là do nhà nước sở hữu hoặc kiểm
soát. Những tổ chức này thường ưu tiên cung cấp vốn vay cho ngành công nghiệp
nông thôn hơn là cho nông dân. Chi phí giao dịch ở các tổ chức tín dụng Trung
Quốc rất cao, không khuyến khích được nông hộ vay các khoản vốn nhỏ.
Tổ chức tín dụng nông thôn quan trọng nhất của Trung Quốc là Hợp tác xã
Tín dụng Nông thôn (RCC), do hệ thống ngân hàng nhà nước kiểm soát chặt chẽ.
Trung Quốc có trên 50.000 HTX tín dụng nông thôn cấp thị trấn và trên 250000
trạm tín dụng làng do RCC quản lý. Từ đầu thập kỷ 90, chính quyền địa phương
đã thiết lập Quỹ Tín dụng Nông thôn và Quỹ Tương trợ nhằm cung cấp các khoản
vốn vay nhỏ cho nông nghiệp hoặc đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng khẩn cấp ở
nhiều vùng.
6. Nông thôn Trung Quốc trước những thách thức mới
Kể từ đầu thập kỷ 80, chính sách trao quyền tự chủ sản xuất cho nông dân
đã giúp Trung Quốc liên tục gặt hái được những vụ mùa bội thu. Hầu hết nông dân
có đủ cơm ăn áo mặc. Ngoài ra, sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp
hương trấn đã tạo điều kiện tăng thu nhập nông thôn ở một số vùng duyên hải phía
13
Đông. Tuy nhiên ở phía Tây và lục địa, đời sống của nông dân dựa vào sản xuất
nông nghiệp, đặc biệt những khu vực trồng ngũ cốc, tăng chậm và có xu hướng
chững lại. Giai đoạn 1979-84, thu nhập bình quân của nông dân Trung Quốc tăng
khoảng 15%/năm, đến giai đoạn 1985-88, giảm xuống 5,1%, và 1989-91, còn ở
mức 1,7%. Giai đoạn 1992-96, do Nhà nước tăng giá thu mua nông sản nên thu
nhập có tăng đôi chút, nhưng kể từ năm 1997, sản xuất tiếp tục tăng song giá thị
trường giảm hơn 30%, khiến cho thu nhập thực tế của nông dân các vùng miền
Trung và Tây giảm mạnh.
Hiện nay ở nhiều nơi, cả hai cấp huyện và làng đều rất nghèo. ở huyện Kiến
Lực, tỉnh Hồ Bắc, có tới 85% số làng sống ở mức nghèo khổ. Mỗi làng hàng năm
thâm hụt 400 ngàn NDT (50 ngàn đô la Mỹ), và có 90% làng lâm vào cảnh nợ nần
với mức nợ trung bình là 600 ngàn NDT (75 ngàn USD). Tính chung cho toàn tỉnh
Hồ Bắc, có tới 90% số huyện ở tình trạng nợ nần với mức nợ trung bình trên 8
triệu NDT (1 triệu USD), và thâm hụt ngân sách ở các huyện lên tới hơn 4 triệu
NDT (500 ngàn USD). Để trả nợ, các làng này phải vay với tỉ lệ lãi cao. ở nhiều
vùng, tình trạng khó khăn và trì trệ làm hầu hết lực lượng lao động không thích
làm nghề nông, dẫn đến hệ thống thuỷ lợi bị bỏ bê, đất bỏ hoang, nông dân muốn
di cư ra thành thị, bản thân quan chức trong làng cũng không thực sự muốn ngăn
cản dòng người di cư này. Vụ thu hoạch hè 2000, sản xuất ngũ cốc của Trung
Quốc giảm 9%. đến vụ thu, hạn hán làm sản lượng ngũ cốc tiếp tục giảm mạnh.
Nhưng do dự trữ còn lớn nên vẫn đủ cung cho năm sau. Nếu tình trạng này tiếp
tục, trong những năm tới nếu dự trữ ngũ cốc giảm mạnh, thậm chí không còn, giá
ngũ cốc sẽ tăng và có thể nông nghiệp thực sự rơi vào khủng hoảng. Trong hoàn
cảnh này, khu vực thành thị cũng sẽ khó duy trì được sự ổn định.
Hộp 1: Trung Quốc: khoảng cách về thu nhập giữa nông thôn và thành thị
Sự khác biệt lớn về thu nhập khiến cho dân thành thị và nông thôn Trung Quốc hiện
đang ở 2 thái cực khác nhau. Trong cuốn sách “Chiến lược Trung Quốc”, nhà kinh tế
học Hồ An Cương, giám đốc Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện Hàn lâm
khoa học Trung Quốc, cho rằng nông dân Trung Quốc vẫn nghèo khổ và càng bị tụt
hậu khi công cuộc cải cách kinh tế tiếp tục diễn ra. Hiện nay, dân số sống ở thành thị
và nông thôn thuộc 2 hệ, về quản lý dân sự, về giáo dục, việc làm, dịch vụ công cộng
và thuế chênh lệch nhau hàng mấy thập kỷ. Sự khác biệt càng trầm trọng hơn khi
chênh lệch về thu nhập của dân thành thị và nông thôn ngày càng lớn và các dịch vụ
cung cấp cho người nghèo ngày càng ít đi.
Hầu hết nông dân đều không được hưởng quyền lợi của các chính sách công cộng
ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày. Mặc dù Trung Quốc đã ưu tiên nâng
cao đời sống nhân dân và hiện nay số người làm việc trong ngành công nghiệp và
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét