Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014

Lạm phát ở Việt Nam thực trạng và đặc trưng

tố của thị trờng đều bị biến dạng bóp méo hoặc bị thổi phồng do vậy các hoạt
động kinh doanh rơi vào tình trạng rối loạn. Siêu lạm phát thực sự là một tai
hoạ, song điều may mắn siêu lạm phát là hiện tợng cực hiếm. Nó đã xảy ra
trong thời kỳ chiến tranh, sau chiến tranh.
Có thể có một cách phân loại lạm phát tuỳ theo tác động của chúng đối
với nền kinh tế. Nhà kinh tế học ngời Mỹ PaunA. Samuelson đã phân biệt lạm
phát cân bằng và có dự đoán trớc với lạm phát không cân bằng và không đợc
dự đoán trớc. Theo Samuelson trong trờng hợp lạm phát cân bằng và có dự
đoán trớc, toàn bộ giá cả đều tăng và tăng với một chỉ số ổn định đợc dự báo,
mọi thu nhập cũng tăng theo. Chẳng hạn mức lạm phát là 10% và mọi ngời sẽ
điều chỉnh hoạt động của mình theo thuớc do đó. Nếu lãi suất thực tế là 6%
một năm thì nay những ngời có tiền cho vay sẽ điều chỉnh mức lãi suất này lên
tới 16% một năm. Công nhân viên chức sẽ đợc tăng lơng lên 10% một năm
Vậy là một cuộc lạm phát cân bằng và có dự đoán trớc đã không gây ra một
tác hại nào đối với sản lợng thực tế, hiệu quả hoặc phân phối thu nhập.
Trên thực tế hiếm có thể xảy ra một cuộc lạm phát nh vậy, vì khi một
khối lợng tiền tệ đợc ném thêm vào lu thông, già cả mọi hàng hoá không vì thế
mà tăng ngay, và nếu lạm phát cha sang giai đoạn phi mẫ thí mức gia tăng mức
đầu thờng là thấp hơn mức tăng khồi lợng tiền tệ, do vậy nhà nớc đã có lợi về
thu nhập và ngay khi mức giá cả tăng lên ngang hoặc cao hơn mức tăng của
khối lợng tiền tệ thì nhà nớc vẫn có lợi vì giá trị tiền tệ của những ngời cho nhà
nớc vay tiền đã giảm đi. Chỉ đến khi toàn bộ giá cả kể cả lãi suất và tiền lơng
đều tăng theo mức lạm phát thu thu nhập của nhập của nhà nớc mới cân bằng
trên một mặt bằng giá cả mới. Hơn nữa trong thực tế rất khó dự báo đợc một
chỉ số lạm phát ổn định, vì có khá nhiều yếu tố làm giá cả tăng vọt nh: giá dầu
mỏ đã tăng trong những năm70, hay trong sự kiện chiến tranh vùng vịnh.
Song có thể thấy một loại lạm phá vừa phải đợc điều tiết đã xuất hiện ở
một số nơc có nền kinh tế thị trờng. Loại lạm phát này có đặc trng là mức độ
lạm phát không lớn và ổn định, không tăng đột biến và nhà nớc có thể điều tiết
5
nó, tăng, giảm tuỳ theo các điều kiện cụ thể sao cho nó không gây ra các tác
hại đáng kể cho nền kinh tế. Loại lạm phát này chỉ có thể xuất hiện ở những
quốc gia mà ở đó bộ máy nhà nớc đủ mạnh để kiềm chế tốc độ lạm phát khi
cần. Sức mạnh cuả nhà thể hiện ở chỗ có đủ hiểu biết về lạm phát và các công
cụ chống lạm phát( mà ngày nay đã có khá nhiều tài liệu nói đến), đồng thời
phải có đủ ý chí và quyết tâm sử dụng các công cụ đó và giải quyết các hậu
quả của nó. Trong những năm 80 ta đã thấy không ít quốc gia TBCN phát triển
ở phơng Tây đã làm đợc điều đó. Mức lạm phát mà họ duy trì đợc vào khoảng
từ 3-6% một năm. Mức lạm phát này đợc xem nh một chỉ số cộng thêm vào
mức tăng lơng thực tế, lãi suất thực tế mức tăng tổng sản phẩm xã hội thực tế.
Paul A. Samuelson còn nói tới một loại lạm phát không cân bằng và
không dự đoán trớc. Sự không cân bằng sảy ra là vì giá cả hàng hoá tăng
không đều nhau và tăng vợt mức tiền lơng.
Thứ hai, tiền tệ và thuế là hai công cụ quan trọng nhất để nhà nớc điều
tiết nền kinh tế đã bị vô hiệu hoá, vì tiền mất giá nên không ai tin vào đồng
tiền nữa các biểu thuế không thể điều chỉnh kịp với mức độ tăng bất ngờ cua
lạm phát và do vậy tác dụng đieu chỉnh của thuế bị hạn chế ngay cả trong tr-
ờng hợp nhà nớc có thể chỉ số hoá luật thuế thích hợp mức lạm phát thì tác
dụng điều chỉnh của thuế cũng bị hạn chế.
Thứ ba, phân phối lại thu nhập làm cho một số ngời nắm giữ các hàng
hoá có giá cả tăng đột biến giầu lên một cách nhanh chóng và những ngời có
các hàng hoá mà giá của chúng không tăng hoặc tăng chậm, và những ngời giữ
tiền bị nghèo đi.
Thứ t, kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hoá, bất động sản và vàng
bạc gây ra tình trạng khan hiếm hàng hoá không bình thờng và lãng phí.
Thứ năm, xuyên tạc, bóp méo các yếu tố của thi trờng, làm cho các điều
kiện của thị trờng bị biến dạng hầu hết các thông tin kinh tế đều thể hiện trên
giá cả hàng hoá, giá cả tiền tệ( lãi suất), giá cả lao động một khi những giá
6
cẩ náy tăng hay giảm đột biến và liên tục thì những yếu tố của thị trờng không
thể tránh khỏi bị thổi phồng hoặc bóp méo.
Do những tác hại nêu trên, loại lạm phát không cân bằng và không dự
đoán trớc về cơ bản là có hại cho hoạt động của thi trờng.
7
ch ơng II
lạm phát ở việt nam -
thực trạng và đặc trng
I. lạm phát việt nam những năm 1981- 1988
Lạm phát ở Việt Nam đã có từ lâu song ở đây chúng tôi muốn nói đến
thời kỳ 1981-1988 trong thời kỳ 1976-1980, lạm phát ở Việt Nam ngầm,
nghĩa là tuy chỉ số giá cả do nhà nớc ấn định tăng không nhiều, nhng chỉ số giá
cả ở thị trờng tự do tăng khá cao, mức tăng giá cả đã vợt xa mức tăng giá trị
tổng sản lợng, cũng nh thu nhập quốc dân: trong thời gian 1976-1980, giá trị
trị tổng sản lợng tính theo giá năm 1982 đã tăng 5. 8%, thu nhập quốc dân sản
xuất đã tăng 1, 5%, nhng mức giá trị đã tăng 2, 62 lần:
1 - Thực trạng:
Bớc vào những năm 80, lạm phát đã bột phát công khai, và trở thành
lạm phát phi mã với mức tăng giá 3 chữ số.
Chỉ số bán lẻ (năm trớc =100)
Thi trờng nhà nớc kiểm soát là thị trờng mà các giá cả do nhà nớc qui
định.
Lạm phát ở Việt Nam đã ở mức phi mã, năm cao nhất đã đạt tới chỉ số
tăng giá 557% vợt qua mức lạm phát phi mã. Song những biểu hiện và tác hại
của nó không kém gì siêu lạm phát.
Thứ nhất, qua bảng trên ta thấy từ năm 1981-1988 chỉ số tăng giá đều
trên 100% một năm; những năm đầu 80 mức tăng này là trên 200%, đến năm
8
1983và 1984 đã giảm xuống, nhng từ năm 1986 đã tăng vọt tới mức cao nhất
557%, sau đó có giảm; nh vậy là mức lạm phát cao và không ổn định.
Thứ hai, tốc độ lu thông tiền tệ tăng nhanh vì dân chúng không ai muốn
giữ tiền, ngời ta bán song hàng phải mua ngay hàng khác, hoặc vàng hoặc đô
la, không ai dám giữ tiền lâu trong tay, vì tốc độ mất giá của nó quá nhanh.
Song ở Việt Nam vòng quay của đồng tiền qua ngân hàng nhà nớc lại không
tăng lên mà giảm đi, vì cơ chế hoạt động của ngân hàng quá kém không đáp
ứng đợc nhu cầu gửi và rút tiền của các chủ kinh doanh và dân c.
Thứ ba, tiền lơng thực tế của dân c bị giảm mạnh, ở Việt Nam trớc năm
1988, hầu hết các giá cả do nhà nớc qui định. Trong những năm 80 nhà nớc đã
nhiều lần tăng giá. Trớc năm 1985, mức tăng giá do nhà nớc qui định không
lớn, tuy mức tăng giá ở thị trờng tự do cao hơn nên nhà nớc đã không bù giá
vào lơng, tiền lơng thực tế đã giảm xuống. Từ năm 1986 nhà nớc đã bù giá vào
lơng ngay sau khi tăng giá.
Nhng tiền lơng thực tế vẫn giảm mạnh vì nhà nớc đã không khống chế đ-
ợc thị trờng tự do. Giá nhà nớc tăng một lần thì giá thị trờng tự do tăng 1, 5
lần. Nhà nớc lại không cung cấp đủ hàng cho dân c theo giá nhà nớc, nên mọi
ngời phải mua hàng ngoài thị trờng tự do với giá cao hơn, mặt khác những ngời
đợc nhà nớc bù giá chỉ là những ngời làm trong khu vực nhà nớc còn số đông
dân c thì không đợc bù giá nh vậy.
Thứ t những ngời gửi tiền và có tiền cho vay đều bị tớc đoạt, vì mức lãi
suất so với lạm phát.
Thứ năm, các yếu tố của thị trờng Việt Nam bị thổi phồng và bóp méo.
Do giá cả nhà nớc định đã không phải là giá cả thị trờng, luôn thấp hơn giá cả
thị trờng tự do, và lại tăng theo từng chu kỳ, nên đã khuyến khích xu hớng đầu
cơ và tích trữ hàng hoá kiếm lợi. Các xí nghiệp đã tìm mọi cách để dự trữ vật t,
không cần kinh doanh cũng có lợi. Dân chúng phải dự trữ nhu yếu phẩm. Tình
trạng khan hiếm hàng hoá, khan hiếm vốn đợc phóng đại, các nhu cầu giả tạo
tăng lên, bức trang thực của nền kinh tế bị xuyên tạc, lãi giả, lỗ thật.
9
Những biểu hiện trên đây của lạm phát Việt Nam tuy mới trong giai doạn
phi mã, nhng cũng đã gần nh đầy đủ các nét chung của giai đoạn siêu lạm
phát.
Một điều đáng chú ý là trớc năm 1988, nhà nớc đã áp dụng nhiều biện
pháp, nghị quyết chống lạm phát, nhng vẫn không kiềm chế và kiểm soát đợc
lạm phát. Chỉ số giảm phát vẫn tăng giảm thất thờng ngoài dự tính của nhà n-
ớc.
2 - Những đặc trng chủ yếu của lạm phát thời kỳ này.
Lạm phát ở Việt Nam cũng có những biểu hiện chung giống các nớc khác
trên thế giới: nh chỉ số giá cả nói chung tăng phổ biến, do vậy giá trị của
đồng tiền giảm. Song lạm phát ở Việt Nam có những đặc điểm riêng do
những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể của Việt Nam qui định.
Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển trong đó khu vực kinh tế nhf
nớc giữ địa vị thống trị.
Nền kinh tế Việt Nam kém phát triển vào bậc nhất trên thế giới tình trạng
kém phát triển này thể hiện ở một chỉ tiêu tính bình quân đầu ngời sau đây.
Tuy khu vực nhà nớc chiếm phần lớn số vốn có định và chất sám trong n-
ớc, nhng lại chỉ có thể làm ra từ 30 đến 37% tổng sản phảm xã hội trong suốt
những năm 80. Một điều đặc biệt quan trọng đáng chú ý là các xí nghiệp quốc
doanh nhìn chung đã nộp ngân sách nhà nớc một số tiền thấp rất xa so với số
tiền mà ngân sách nhà nớc đã phải bao cấp cho nó qua các kênh bù lỗ, bù giá,
bù cho việc cấp phát tín dụng với lãi suất thấp, bù cho việc bán hàng nhập khẩu
với giá rẻ v. v Có năm số tiền mà ngân sách nhà nớc phải bao cấp đã lớn gấp
ba lần số tiền mà khu vực quốc doanh nộp vào ngân sách nhà nớc. Tình trạng
lãi giả lỗ thựclà khá phổ biến nếu so sánh với khu vực kinh doanh t nhân thí sự
kém cỏi về hiệu quả lại càng rõ. Báo nhân dân ngày 12-11-1988 cũng đã đa ra
một sự so sánh khá lý thú: Tại trung tâm thơng nghiệp Đà Nẵng, nếu cùng
chiếm một diện tích kinh doanh nh nhau, nhng thơng nghiệp quốc doanh chỉ
10
nộp ngân sách nhà nớc 11 triệu trong quí một, trong khi đó thơng nghiệp t
nhân đã nộp cho ngân sách 351 triệu đồng.
Vậy là đáng lẽ khu vực kinh tế nhà nớc phải là nguồn thu chủ yếu của
ngân sách, thì trong những năm 80, ngợc lại nó đòi hỏi ngân sách nhà nớc quá
lớn. Sự phân tích trên cho thấy là khu vực kinh tế nhà nớc ở Việt Nam chiếm
một tỷ trọng lớn nhất về tài sản cố định, lao động lành nghề và chất xám, nhng
lại làm ăn kém hiệu quả nhất, hàng năm đòi hỏi ngân sách nhà nớc bao cấp lớn
nhất, khu vức kinh tế tập thể cũng vậy; chỉ có khu vực t nhân làm ăn có hiệu
quả, nhng lại chiếm một tỷ trọng nhỏ trong nền kinh tế. Nguồn thu chủ yếu
của ngân sách nhà nớc trông chờ từ khu vực kinh tế nhà nớc và kinh tế tập thể,
nhng các khu vực này trên thực tế đã không đóng góp gì cho ngân sách nhà n-
ớc nếu so với phần nhà nớc phải bao cấp. Hơn nữa các khu vực này lại luôn
luôn đòi hỏi ngân sách nhà nớc phải u đãi và bao cấp cho họ, vì họ là của nhà
nớc, của tập thể, của XHCN Đó là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới lạm phát
và một khi lạm phát bùng nổ, đã làm cho thị trờng rối loạn, lời lỗ khó xác định,
các hớng kinh doanh có hiệu quả và không có hiệu quả lẫn lộn. Trong tình
trạng đó, các đơn vị kinh doanh phải đẩy mạnh các hoạt động đầu cơ ăn chênh
lệch giá có lợi hơn là tìm hớng kinh doanh có hiệu quả. Sự giảm sút hiệu quả
kinh doanh càng nghiêm trọng hơn và do vậy lạm phát lại càng cao hơn. Cái
vòng soay hiệu quả giảm sút dẫn đến thu không đủ chi và lạm phát, rồi lạm
phát lại làm cho hiệu quả giảm sút cứ thế quay, thật nguy hiểm.
Lạm phát của một nền kinh tế mà độc quyền nhà nớc có vị trí thống trị
trên mọi lĩnh vực, cơ chế quan liêu mệnh lệnh, bao cấp nặng nề.
Nh chúng ta đã biết, tronh một nền kinh té thị trờng cạnh tranh phát triển
tất dẫn đến tình trạng độc quyền và độc quyền khi mới xuất hiện có những ý
nghĩa tiến bộ nh: để giành lấy vị trí độc quyền, các công ty phải cải tiến lao
động áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tập trung các nguồn lực Nhng khi đã giữ đợc
trí độc quyền rồi, thì các công ty này lại tìm cách duy trì vị trí của mình bằng
cách bóp chết các địch thủ và ít chú ý đến việc cải tiến quản lý kỹ thuật, chính
11
điều này đã dẫn đến suy thoái và khủng hoảng. ở Việt Nam nhiều nghành đã
hợp nhất tất cả các xí nghiệp lại thành một doanh nghiệp duy nhất và trong các
lĩnh vực này không thể còn tồn tại một sự cạnh tranh nào. Cùng với chế độ độc
quyền nhà nớc, cơ chế mệnh lệnh quan liêu bao cấp đã ngự trị bền vững và
bám rễ sâu chắc vào bộ máy kinh tế nhà nớc Việt Nam, các cơ sở kinh tế một
thời làm gì cũng phải xin lệnh cấp trên. Sản suất cái gì, mẫu mã gì, bán ở đâu,
do ai cung cấp vật t, thiết bị, đợc tuyển bao nhiêu công nhân viên, lơng mỗi ngời
bao nhiêu v. v đều do cấp trên qui định. Cơ chế quan liêu này đã xoá hết tính độc
lập tự chủ của các cơ sở. Chế đọ độc quyền của nhà nớc và cơ chế kinh tế kế
hoạch, quan liêu, mệnh lệnh, bao cấp đã triệt tiêu mất các quan hệ thị trờng ở Việt
nam, làm cho nền kinh tế Việt Nam xa lạ với thị trờng.
Chính chế độ độc quyền và cơ chế quan liêu bao cấp đã là một trong
những nguyên nhân chủ yếu đa nền kinh tế Việt Nam tới tình trạng kém hiệu
quả và lạm phát cao.
Lạm phát của một nền kinh tế đóng cửa và phụ thuộc một chiều vào các
nguồn tài trợ bên ngoài. Nền kinh tế Việt Nam cho đến năm 1988về cơ bản
vẫn là vẫn là một nền kinh tế đóng cửa, tuy đã có luật đầu t khà cởi mở. Từ tr-
ớc năm 1988 về trớc, dờng nh có rất ít các nhà đầu t nớc ngoài vào Việt Nam,
các biên giới bị đóng cửa chặt hầu nh không có buôn bán biên giới, chính sách
hải quan khá chặt chẽ không khuyến khích suất nhập khẩu, chính sách suất
nhập cảnh cũng chặt chẽ không kém. Hậu quả là các đồng vồn, hàng hoá đã
không du nhập vào Việt Nam đợc mặc dù thị trờng Việt Nam rất thiếu vốn và
hàng hoá. Tình trạng khan hiếm hàng hoá trên thị trờng đã không đợc giải
quyết bằng cách ngập khẩu hàng hoá bổ xung. Đầu cơ phát triển, càng làm cho
cung cầu không cân đối, đẩy giá cả lên cao hơn.
Ngoài những đặc trng chử yếu trên đây, ta còn có thể kể ra các đặc trng
khác của lạm phát Việt Nam nh:
- Lạm phát của một nền kinh tế mà cơ cấu của nó bao gồm những nghành
kém hiệu quả đợc u tiên phát triển.
12
- Lạm phát của một nền kinh tế chịu hậu quả nặng nề của các cuộc chiến
tranh kéo dài nhiều năm. Do vậy những khoản chi tiêu cho quốc phòng lớn,
những khoản chi phí đã làm tăng sự thâm hụt ngân sách và gia tăng lạm phát.
- Việt nam là nớc nông nghiệp mà năm nào cũng có nơi bị thiên tai hạn
hán lũ lụt, mất mùa nặng nề, nên ngân sách phải trợ cấp vùng lũ lụt.
Từ những phân tích các đặc trng của lạm phát, ta có thể thấy đợc những
nguyên nhân của lạm phát của thời kỳ 1981-1988.
Trớc hết ta có thể tìm thấy nguyên nhân của lạm phát từ trong chính các
thể chế kinh tế ở Việt Nam, từ chế độ công hữu tràn lan đến cơ cấu kinh tế
quan liêu bao cấp, mệnh lệnh, đóng cửa Chính thể chế kinh tế này dã làm
cho nền kinh tế hình thành và phát triển theo hớng tăng chi phí, tách rời nhu
cầu, cô lập với thị trờng thế giới, do vậy mà không thể tạo môi trờng kinh
doanh có hiệu quả cho các xí nghiệp các công ty, thúc đẩy mất cân đối cung
cầu, thu và chi ngân sách Thể chế kích thích xu hớng phát triển không có
hiệu quả, không trừng phạt các xí nghiệp làm ăn thua lỗ. Đó là nguyên nhân
sâu xa đa nền kinh tế nớc ta lâm vào tình trạng lạm phát phi mã.
Thứ hai những nguyên nhân của lạm phát từ trong chính các thể chế chỉ
đạo sai lầm của bộ máy nhà nớc: cơ cấu không suất phát từ hiệu quả, chính
sách lãi suất quá thấp so với mức trợt giá làm dân chúng không muốn gửi tiết
kiệm, các ngân hàng chỉ làm chức năng phát hành thu giữ mà không làm chức
năng kinh doang tiền tệ và vốn, không biết đầu t vào ngành có hiệu quả, chính
sách tài chính chỉ tính đến việc tận thu và phát hành tiền để chi mà không biết
nuôi dỡng các nguồn thu, vay của dân để chi v. v Những chính sách này trên
thực tế đã làm cho các nguồn thu ngày càng cạn kiệt, ngân sách ngày càng
thiếu hụt và lạm phát gia tăng là một điều không tránh khỏi.
Thứ ba, nguyên nhân lạm phát do những điều kiện khách quan gây ra nh
chiến tranh, thiên tai
13
Những đặc trng trên đây cho thấy lạm phát ở Việt Nam thời kỳ này khác
hẳn với các nớc phơng Tây.
II. lạm phát nớc ta những năm 1990-1995
1 - Đổi Mới Cơ Chế, chính sách.
Những kết quả bớc của quá trình đổi mới cơ chế, chính sách giá theo đ-
ờng lối đại hội VI và đại hội VII của đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam đợc
thể hiện trớc hết và về cơ bản là cơ chế và chính sách giá đã chuyển biến theo
hớng xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, thông qua hệ thống hai giá
chuyển mạnh sang cơ chế một giá kinh doanh phù hợp với quan hệ cung cầu và
thị trờng, bắt đầu từ giá mua nông sản, thuỷ sản, giá bán lẻ hàng tiêu dùng và dịch
vụ Và đến nay hầu hết các loại vật t chủ yếu ; mở rộng quyền tự chủ về giá, đi
đôi với đổi mới cơ chế kế hoạch hoá, tự chủ về vốn tự chịu trách nhiệm về lời lỗ
trong sản xuất kinh doanh.
Việc điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nớc đã có sự đồng bộ trên các mặt
tài chính, tiền tệ và diều hoà thị trờng giá cả, bội chi ngân sách và nhu cầu tín
dụng vốn lu động cho các tổ chức kinh tế đợc bù đắp chủ yếu bằng nguồn vay
dân; ngân hàng đã có dự trữ đủ sức can thiệp hai thi trờng vàng và đô la không
để xảy ra đột biến giá, lạm phát đã đợc kìm chế và giảm thấp là kết quả nổi bật
trong năm 1992.
Giá cả thị trờng có xu hớng đi vào ổ định. Chỉ số giá bán lẻ hàng hoá dịch
vụ trong những tháng đầu năm 1992 tăng 5-6% tháng. Từ tháng 3-1992 tốc độ
tăng giá liên tục giảm, mức tăng giá bình quân hàng thàng từ 3, 5%trong quí I,
xuống 0, 75% trong quí II và xuống còn 0, 2% trong quí III, mức tăng giá hàng
tháng trong quí IV là 1, 05% tuy cao hơn quí II và III nhng thấp hơn nhiều so với
mức tăng giá trong quí IV các năm trớc. Mức tăng giá cả năm là 17, 49% thấp hơn
mức Quốc hội đề ra từ đầu năm (30-40%).
Sở dĩ đạt đợc sự ổn định nh trên là do kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố,
nhng trớc hết là chính sách quản lý chặt chẽ khối lợng tiền tệ tăng thêm, mở
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét