Thứ Năm, 27 tháng 2, 2014

Hệ thống các tổ chức tài chính trung gian ở Việt Nam

Danh mục các bảng biểu:
Biểu 1 : Khái quát cơ cấu và trình độ lao động của công ty
Biểu 2: Máy móc thiết bị của công ty.
Biểu 3:kết quả về thực hiện một số chỉ tiêu .
Biểu 4: Nhóm chỉ tiêu tổng hợp
Biểu 5: Một số chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng lao động
Biểu 6 :Lương và thu nhập của CBCNV 2004 đến 2008
Biểu 7: Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Biểu 8: Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Biểu 9 : Chi phí sản xuất kinh doanh
Biểu 10: Tình hình thực hiện kế hoạch SXKD năm 2006.
Biểu 11: Tình hình thực hiện kế hoạch SXKD năm 2007.
Biểu 12: Tình hình thực hiện kế hoạch SXKD năm 2008.
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển như vũ bão của KHKT với
những thành tựu to lớn của nó đã và đang được ứng dụng để phát triển sản
xuất. Để đáp ứng sự phát triển đó và giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh
gay gắt trên thương trường, cũng như để quản lý tốt công ty của mình đề ra
được các phương án kinh doanh có hiệu quả, nhà quản lý phải thường xuyên
phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở nhiều luồng nhiều loại
thông tin trong hoạt động của doanh nghiệp. Từ trước tới nay, việc phân tích
hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp ít được quan tâm và đánh
giá đúng tầm quan trọng của nó, vì hiệu quả hay kết quả của hoạt động doanh
nghiệp rất dễ được nhìn qua thông số lợi nhuận của doanh thu. Tuy vậy,
chúng ta cần lưu ý rằng nếu chỉ dừng lại ở các thông tin đó thì không thể thấy
bức tranh toàn cảnh về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
không thấy được các nguyên nhân sâu xa tạo ra hiệu quả kinh doanh, không
thấy được các ưu nhược điểm của quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh. Do
vậy người quản lý cần phải đi sâu nghiên cứu nội dung, kết cấu và mối quan
hệ qua lại giữa các số liệu phản ánh quá trình sản xuất kinh doanh để đạt được
từng phần hoạt động của doanh nghiệp, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp cụ
thể để khai thác các tiềm năng và khắc phục các nhược điểm của doanh
nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Mặt khác hiện nay tình hình kinh tế toàn cầu đang suy thoái, các doanh
nghiệp đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Vì vậy bắt buộc các doanh nghiệp
cần phải cạnh tranh gay gắt hơn và đưa ra nhưng hướng đi, những giải pháp
cho riêng mình. Mà Công Ty Sông Mã lại vừa thực hiện quá trình cổ phần
hóa nên không thể không gặp phải những khó khăn như: Một số đơn vị trực
thuộc sau khi cổ phần hoá tuy đã đi vào hoạt động độc lập nhưng trong giai
1
đoạn đầu vẫn còn nhiều khó khăn trong việc liên doanh, liên kết, tìm kiếm đối
tác cũng như thị trường tiêu thụ, làm quen với các phương pháp quản lý, chưa
quen với hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật do đó hiệu quả SXKD
chưa cao.
. Sau quá trình học tập tại khoa Kế Hoạch & Phát Triển trường
ĐHKTQD và thực tập tại Công ty Sông Mã. Để giải quyết nhu cầu cấp thiết
này của thực tế sản xuất kinh doanh, em quyết định chọn đề tài: “Các giải
pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công Ty Sông Mã sau
cổ phần hóa”.
Với những kiến thức tiếp thu được trong những năm học vừa qua và
với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn - PGS.TS Phạm Văn Vận và
tập thể cán bộ công nhân viên Công ty Sông Mã, cùng với sự nỗ lực cố gắng
của bản thân, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập theo yêu cầu tuy nhiên do
những hạn chế về kiến thức nên trong chuyên đề thực tập này chắc chắn
không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn !
2
PHẦN I
HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP
1.1. THỰC CHẤT HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP.
1.1.1. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Để hiểu được hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trước
hết ta phải hiểu khái niệm doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một tổ chức sống, một chủ thể hoạt động sản xuất kinh
doanh hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường, có tên riêng, có tài
sản, có trụ sở giao dịch ổn định được đăng ký kinh doanh theo qui định của
pháp luật. Doanh nghiệp là một hệ thống mở có quan hệ khăng khít với môi
trường sản xuất kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp là một khâu trong hệ thống
phân công xã hội của nền kinh tế. Doanh nghiệp là đơn vị tiêu thụ đồng thời
là đơn vị cung cấp trên thị trường mua và bán. Sự hoạt động có hiệu quả
không thể tách rời các chính sách kinh tế vĩ mô và các yếu tố khác của môi
trường sản xuất kinh doanh.
Vì vậy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một trong
những phân hệ chính có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra sản phẩm, dịch vụ
nhằm cung cấp sản phẩm dịch vụ thoả mãn nhu cầu thị trường và thu về cho
mình một khoản lợi nhuận nhất định.
Hình thành, phát triển và tổ chức điều hành tốt hoạt động sản xuất là cơ
sở và yêu cầu thiết yếu để mỗi doanh nghiệp có thể đứng vững và phát triển
trên thị trường, cũng như các phân hệ khác hệ thống sản xuất bao gồm nhiều
yếu tố cấu thành có mối quan hệ khăng khít chặt chẽ với nhau, yếu tố trung
3
tâm của hoạt động sản xuất là quá trình biến đổi, đó là quá trình chế biến
chuyển hoá các yếu tố đầu vào hình thành hàng hoá hoặc dịch vụ mong muốn
đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Các yếu tố đầu vào rất đa dạng gồm có nguồn tài nguyên thiên nhiên,
con người, công nghệ, kỹ năng quản lý và nguồn thông tin. Chúng là điều
kiện cần thiết cho bất kỳ quá trình sản xuất hoặc dịch vụ nào. Muốn quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả cần phải tổ chức khai thác
các yếu tố đầu vào hợp lý, tiết kiệm nhất.
Đầu ra chủ yếu gồm hai loại là sản phẩm và dịch vụ. Đối với hoạt động
cung cấp dịch vụ, đầu ra được thể hiện dưới nhiều dạng khó nhận biết một
cách cụ thể. Ngoài những sản phẩm và dịch vụ được tạo ra sau mỗi quá trình
sản xuất còn có các loại phụ phẩm khác có thể có lợi hoặc không có lợi cho
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thông tin phản hồi là một bộ phận không thể thiếu được trong hệ thống
sản xuất của doanh nghiệp. Đó là những thông tin ngược cho biết tình hình
thực hiện kế hoạch sản xuất trong thực tế của doanh nghiệp.
Các đột biến ngẫu nhiên làm rối loạn hoạt động của toàn bộ hệ thống
sản xuất dẫn đến không thực hiện được những mục tiêu dự kiến ban đầu như:
thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh
Các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm
mục tiêu sinh lời. Lợi nhuận tối đa là mục tiêu chung nhất, mục tiêu cuối cùng
của bất kỳ doanh nghiệp nào khi đầu tư tiền của và sức lực vào hoạt động
kinh doanh trên thị trường. Vì vậy các doanh nghiệp phải thiết kế và tổ chức
hệ thống sản xuất như thế nào để biến đổi đầu vào thành các yếu tố đầu ra sau
mỗi quá trình biến đổi, nhưng với một lượng lớn hơn số lượng đầu tư ban đầu.
Giá trị gia tăng(GTGT) là yếu tố quan trọng nhất là động cơ hoạt động của
các doanh nghiệp và mọi tổ chức cá nhân có liên quan trực tiếp đến quá trình
4
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. GTGT là nguồn gốc của tăng của cải
và mức sống của toàn xã hội. Tạo ra nguồn thu nhập cho tất cả các đối tượng
có tham gia đóng góp vào hoạt động của doanh nghiệp như: những người lao
động, chủ sở hữu, cán bộ quản lý và là nguồn tái đầu tư sản xuất mở rộng đảm
bảo cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
1.1.2. Thực chất hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong các doanh
nghiệp.
Từ trước đến nay khi đề cập đến hiệu quả người ta vẫn chưa có được
quan niệm thống nhất. Mỗi lĩnh vực, mỗi giác độ có một quan niệm về hiệu
quả khác nhau và thông thường người ta gắn tên lĩnh vực được đề cập sau từ
“hiệu quả “.
Sản xuất là hoạt động có ích của con người trên cơ sở sử dụng có hiệu
quả đất đai, vốn, thiết bị máy móc, các phương pháp quản lý và công cụ lao
động khác tác động lên các yếu tố như nguyên vật liệu, bán thành phẩm và
biến các yếu tố đầu vào thành sản phẩm hoặc dịch vụ phù hợp với nhu cầu
của xã hội.
Kinh doanh là việc thực hiện một số hay tất cả các công đoạn của quá
trình từ đầu tư sản xuất đến tiêu thụ hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lời.
Do sự phát triển của hình thái xã hội có quan hệ sản xuất khác nhau
trong lịch sử và do các góc độ nhìn nhận khác nhau mà có các quan điểm
khác nhau về hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Quan điểm 1: Trong xã hội tư bản, việc phấn đấu tăng hiệu quả sản xuất
kinh doanh thực chất là đem lại nhiều lợi nhuận hơn nữa cho các nhà tư bản
những người nắm quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và qua đó phục vụ cho lợi
ích của nhà tư bản. Ađam Smith cho rằng “ hiệu quả kinh doanh là kết quả
đạt được từ hoạt động kinh tế, là doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá “. Với
5
quan điểm này ông đồng nhất hoạt động kinh doanh và kết quả hoạt động
kinh doanh. Nhiều người đánh giá đây là quan điểm phản ánh tư tưởng trọng
thương của ông.
Quan điểm 2: Cho rằng “ hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa
phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí “. Quan điểm này
biểu hiện được mối quan hệ so sánh tương đối giữa kết quả đạt được và chi
phí tiêu hao. Tuy nhiên xét trên quan điểm triết học của chủ nghĩa Mac-Lênin
thì sự vật hiện tượng đều có mối quan hệ ràng buộc hữu cơ, có tác động qua
lại lẫn nhau chứ không tồn tại một cách riêng lẻ. Kinh doanh là một quá trình
trong đó các yếu tố tăng thêm có sự liên kết mật thiết với các yếu tố sẵn có,
các mối quan hệ này trực tiếp hoặc gián tiếp tác động làm kết quả kinh doanh
thay đổi. Quan điểm trên chỉ tính đến hiệu quả kinh doanh trên phần chi phí
bổ sung và hiệu quả bổ sung.
Quan điểm 3: cho rằng “ hiệu quả sản xuất kinh doanh được đo bằng
hiệu số giữa kết quả và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó “. Ưu điểm của
quan điểm này là phản ánh được mối quan hệ bản chất của hiệu quả kinh tế,
đã gắn kết quả với toàn bộ chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là sự phản ánh
trình độ sử dụng các yếu tố của quá trình kinh doanh. Tuy nhiên quan điểm
này vẫn chưa biểu hiện được mối tương quan giữa chất và lượng của kết quả
và mức chặt chẽ của mối liên hệ này.
Trong xã hội XHCN, phạm trù hiệu quả vẫn tồn tại vì sản phẩm xã hội
vẫn được sản xuất ra từ tài sản thuộc quyền sở hữu Nhà nước, toàn dân và tập
thể. Tuy nhiên mục đích của nền sản xuất XHCN khác với nền sản xuất
TBCN ở chỗ hàng hoá sản xuất ra là để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của tất cả
mọi người. Đứng trên lập trường tư tưởng đó, hiệu quả kinh doanh được quan
niệm là mức độ thoả mãn yêu cầu của qui luật kinh tế cơ bản của xã hội
XHCN. Qui luật cho rằng tiêu dùng là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của xã
6
hội loài người. Khó khăn ở đây là phương tiện đo lường thể hiện tư tưởng
định hướng đó bởi đời sống nhân dân nói chung và mức sống nói riêng là rất
đa dạng và phong phú.
Như vậy ta thấy các quan niệm trên là không thống nhất và đều còn có
những hạn chế, chưa thể hiện được hết bản chất cũng như các mối liên quan
trong quan niệm về hiệu quả kinh doanh. Tuy vậy chúng đều chung nhau ở
một điểm cho rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của
hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy một quan điển về hiệu quả kinh doanh có
thể coi là tương đối đầy đủ và hoàn thiện đã được phát biểu như sau:
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện sự tập
trung của phát triển kinh tế theo chiếu sâu. Phản ánh trình độ khai thác các
nguồn lực và trình độ chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất
nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan
trọng của tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện
mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất
hàng hoá, phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất. Sản
xuất hàng hoá có phát triển hay không là phụ thuộc vào hiệu quả cao hay
thấp. Biểu hiện của hiệu quả là lợi ích mà thước đo cơ bản là tiền.
Chúng ta cần hiểu, hiệu quả sản xuất kinh doanh một cách toàn diện
trên cả hai mặt định tính và định lượng:
+ Về mặt định tính: hiệu quả kinh tế phản ánh sự cố gắng, nỗ lực trình
độ quản lý của mỗi khâu, mỗi cấp trong hệ thống và sự gắn bó của việc giải
quyết những yêu cầu và mục tiêu chính trị xã hội. Việc định tính thường được
thể hiện thành mức độ quan trọng hoặc vai trò của công việc, nhiệm vụ trong
quá trình sản xuất.
7
+ Về mặt định lượng: hiệu quả kinh tế của việc thực hiện mỗi nhiệm vụ
kinh tế xã hội biểu hiện mối tương quan giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra.
Hiệu quả kinh tế chỉ thu được khi kết quả thu về lớn hơn chi phí bỏ ra. Chênh
lệch giữa hai yếu tố này càng lớn, hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại.
Việc định lượng thường được thực hiện bằng các con số, chỉ tiêu cụ thể để
tính toán và so sánh.
Hai mặt định tính và định lượng của phạm trù hiệu quả kinh tế có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc thực hiện các mục tiêu định lượng cũng
nhằm phục vụ cho những mục tiêu chính trị xã hội nhất định và không phải
việc thực hiện mục tiêu chính trị xã hội nào cũng chấp nhận mọi giá.
Thực chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao
động xã hội và tíết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật
thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế, chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử
dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã
hội đặt ra, yêu cầu phải khai thác tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực.
Để đạt được mục tiêu kinh doanh các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các
điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết
kiệm mọi chi phí.
Từ những quan điểm đó ta thấy hiệu quả sản xuất kinh doanh là một
phạm trù kinh tế phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh và nó
được thể hiện bằng mối tương quan giữa tương quan từ hoạt động sản xuất
kinh doanh từ chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh
trong thực tế nó được biểu hiện bằng hai biểu thức toán học là hiệu số và hệ
số.
Σ kết quả
+ biểu hiện bằng hệ số =
Σ chi phí
8
Nếu Σ kết quả > Σ chi phí thì đạt hiệu quả cao và ngược lại. Đồng thời
nó cũng có thể đo bằng sự gia tăng giữa:
∆ kết quả
∆ chi phí
+biểu hiện bằng :
Hiệu số = kết quả thu được - chi phí bỏ ra
hay :
Lợi nhuận = kết quả - chi phí
Vì vậy yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải
đạt kết quả tối đa và chi phí tối thiểu hoặc chính xác hơn là đạt kết quả tối đa
với chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối
thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là chi phí tạo ra nguồn lực và
chi phí sử dụng nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí
cơ hội phải được bổ sung vào chi phí kế toán để thấy rõ lợi ích kinh tế thực
sự. Cách tính như vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh doanh sẽ lựa chọn
phương án kinh doanh tốt nhất, các mặt hàng sản xuất kinh doanh có hiệu quả
nhất.
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ SẢN XUẤT
KINH DOANH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP.
1.2.1. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả và tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát huy
những thành tựu đã đạt được, khắc phục những điểm yếu, tồn tại và không
ngừng lớn mạnh trong môi trường cạnh tranh nghiệt ngã của kinh tế thị
trường là mục tiêu của các doanh nghiệp do vậy yêu cầu được đặt ra là làm
9

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét