Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Lạng Sơn

Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”.
vậy, nâng cao hiệu quả huy động vốn là sự cần thiết trong quá trình hoạt động
của NHTM ở tất cả các quốc gia.
1.1.3. Nội dung và tính chất của các loại vốn trong NHTM
1.1.3.1. Vốn tự có:
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được
thuộc về sở hữu của ngân hàng. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu
dài để hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ
lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt
buộc khi thành lập một ngân hàng.
Do tính chất ổn định của nó, Ngân hàng có thể sử dụng vào các mục
đích khác nhau như trang bị cơ sở vật chất, mua tài sản cố định, dùng để đầu
tư hay góp vốn liên doanh… vốn tự có là căn cứ quyết định khả năng thanh
toán khi Ngân hàng gặp rủi ro. Sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định
năng lực và sự phát triển của NHTM. Vốn tự có của Ngân hàng được hình
thành căn cứ vào hình thức tổ chức của NHTM là: NHTM quốc doanh,
NHTM cổ phần hay NHTM liên doanh…
Vốn tự có gồm các thành phần: vốn tự có cơ bản, vốn tự có bổ sung.
+ Vốn tự có cơ bản: Là vốn điều lệ – vốn pháp định
• Vốn điều lệ: do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt động của
Ngân hàng, theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định.
• Vốn pháp định: Là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do pháp
luật quy định.
+ Vốn tự có bổ sung trong quá trình hoạt động của ngân hàng gia tăng
vốn của chủ theo nhiều phưong thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể
và các quỹ như: Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự trữ đặc biệt và quỹ
khác.
Nguồn nội bộ (nguồn từ lợi nhuận): Trong điều kiện thu nhập ròng lớn
hơn không, chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn bằng cách chuyển một
5
5
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”.
phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc
của chủ ngân hàng về tích lũy từ lợi nhuận và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu
năm có thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao hơn với vốn
của chủ hình thành ban đầu.
Nguồn bên ngoài: Là nguồn bổ xung từ phát hành thêm cổ phiếu để mở
rộng quy mô hoạt động hoặc để đổim mới trang thiết bị hay để đáp ứng yêu
cầu vốn của chủ do ngân hàng nhà nước quy định.
• Nếu phát hành cổ phiếu thường phải chia sẻ quyền lực và lợi nhuận
• Nếu phát hành cổ phiếu ưu đãi thì không chia sẻ quyền lực và lợi
tức là cố định
• Nếu phát hành trái phiếu chuyển đổi thì không mất quyền sở hữu
và lợi nhuận có thể chuyển đổi ra tiền tiết kiệm nhưng trái phiếu vẫn là một
khoản nợ và ngân hàng phải để một khoản quỹ để trả nợ.
Đặc điểm của hình thức huy động này là không thuờng xuyên song
giúp ngân hàng có được lượng vốn sở hữu vào lúc cần thiết.
Các quỹ:
• Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Là quỹ được dùng với mục đích tăng cường
vốn tự có ban đầu. Lợi nhuận hàng năm bổ sung vào quỹ này cho đến khi đạt
50% vốn tự có thì sẽ chuyển thành vốn tự có.
• Quỹ dự trữ đặc biệt: Là quỹ dùng để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình
kinh doanh nhằm bảo toàn vốn.
• Các quỹ khác: Gồm có lợi nhuận chưa phân phối, quỹ phúc lợi, quỹ khen
thưởng, quỹ khấu hao tài sản cố định.
Các quỹ trên thuộc sở hữu của ngân hàng. Nguồn hình thành là từ thu
nhập của ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ
phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng (vốn bổ xung)
do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà
cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
6
6
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”.
1.1.3.2. Vốn huy động:
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ
các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội, thông qua việc thực hiện các
nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm
vốn để kinh doanh.
Nguồn vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, Ngân
hàng chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu và có trách nhiệm
hoàn trả đúng thời hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu
rút.Vốn huy động đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh
doanh của NHTM.
Nguồn vốn huy động không ngừng tăng lên, tỷ lệ thuận với mọi thành
phần kinh tế trong xã hội. Do đó, các NHTM luôn quan tâm khai thác để mở
rộng tín dụng. Nhưng nguồn vốn này chỉ được sử dụng một phần để kinh
doanh, còn phải dự trữ một tỷ lệ hợp lí để đảm bảo khả năng thanh toán. Vốn
huy động gồm có: Vốn tiền gửi và phát hành những giấy tờ có giá.
Vốn tiền gửi:
+ Tiền gửi không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi mà khách hàng gửi vào
ngân hàng nhưng có thể rút ra bất cứ lúc nào và Ngân hàng phải thoả mãn
yêu cầu này (gửi tiền để sử dụng séc, sử dụng thẻ rút tiền hoặc để thực hiện
dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ LC hay dịch vụ nhờ thu).
Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi, gồm
tiền gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý.
• Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch): Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá
nhân để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Ngân hàng thực hiện các nhu
cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân trong phạm vi số dư cho phép. Các
khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân có thể được nhập vào tiền
gửi thanh toán theo yêu cầu, với loại tiền gửi này lãi suất là rất nhỏ (huặc
bằng 0)
7
7
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”.
Tiền gửi không kỳ hạn chỉ không ổn định với cá nhân còn đối với
doanh nghiệp rất ổn định.
• Tài khoản tiền gửi thanh toán: Là tài khoản mà việc rút và nộp tiền được thực
hiện bằng séc hoặc chuyển khoản.
• Tài khoản vãng lai: Là tài khoản lúc dư nợ, lúc dư có.
Tuy nhiên, ở Ngân hàng luôn có sự chênh lệch giữa xuất và nhập trên
mỗi tài khoản tiền gửi thanh toán, thường nhập lớn hơn xuất. Từ đó, tạo nên
một khoản tiền tạm thời nhàn rỗi và Ngân hàng có thể sử dụng một phần để
kinh doanh.
• Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý: Là khoản tiền kí gửi với mục đích an toàn
tài sản, không phải để thanh toán, khi cần khách hàng có thể rút ra để chi tiêu
và Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu của họ. Ngân hàng có thể sử dụng phần
dư thừa nếu đảm bảo được khả năng chi trả.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận giữa khách
hàng và Ngân hàng về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc khách hàng không
được rút tiền trước thời hạn. Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền
gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm.Đây là nguồn tiền tương đối ổn định,
Ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy
các NHTM luôn tìm cách đa dạng hóa loại tiền gửi này bằng cách áp dụng
nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của khách
hàng. Các khoản tiền gửi có kỳ hạn không được dùng để thanh toán, thường
có lãi xuất cao và thời hạn dài hơn.
+ Tiền gửi tiết kiệm: Là một phần thu nhập của người lao động chưa sử
dụng đến, tạm thời nhàn rỗi. Họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích lũy tiền
một cách an toàn và hưởng lãi. Tiền gửi tiết kiệm có hai loại: tiết kiệm không
kỳ hạn và tiết kiệm có kỳ hạn.
8
8
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”.
• Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền có thể rút ra bất kỳ lúc nào
nhưng không được dùng các phương tiện thanh toán để chi trả cho khách
hàng.
• Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận của khách
hàng và Ngân hàng về thời hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn tiền
gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
• Tiền gửi của các ngân hàng khác là nguồn tiền của các ngân hàng thường mài
gửi vào nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ hay một số mục đích khác.
Đây là nguồn vốn chính để ngân hàng kinh doanh tiền tệ, nó là một
trong những nguồn vốn ổn định nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên
tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp chủ yếu là ngắn hạn vì doanh nghiệp
hoạt động có chu kỳ, khi nào tạm thời thừa vốn thì mới gửi ngân hàng. Mặt
khác:
Lãi suất huy động nhỏ hơn lãi suất vay nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình
quân của nền kinh tế.
Nếu lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất huy động: Ngân hàng có lãi
Nếu tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế <lãi suất cho vay
< lãi suất huy động thì mọi người gửi hết tiền vào ngân hàng và không kinh
doanh nữa như vậy ngân hàng không cho ai vay được điều này không thể xảy
ra do đó không bao giờ gửi vốn vào ngân hàng trung dài hạn vì mục đích họ
hướng tới là tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế.
Phát hành giấy tờ có giá:
Bên cạch các phương thức trên, các NHTM còn phát hành chứng chỉ
tiền gửi, trái phiếu và kỳ phiếu. Thực chất là việc huy động vốn bằng việc
phát hành các giấy tờ có giá.
+ Kỳ phiếu ngân hàng là giấy nhận nợ của ngân hàng có kỳ hạn nhỏ
hơn 12 tháng
• Đặc trưng của nó là quản lý được chính sách lãi suất trong ngắn hạn
9
9
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”.
• Tính lỏng cao
• Ngân hàng phát hành chủ động hơn về mặt quy mô hoạt động (chỉ
thông qua tổng giám đốc)
+ Trái phiếu ngân hàng là giấy nhận nợ của ngân hàng có thời hạn lớn
hơn 12 tháng
• Đặc trưng: Quản lý được chính cách lãi suất trong dài hạn
• Tính lỏng cao, có thể mua bán được trên thị trường chứng khoán
• Phát hành thông qua thống đốc ngân hàng
+ Chứng chỉ tiền gửi
Các giấy tờ có giá được Ngân hàng phát hành từng đợt, tuỳ theo mục
đích với sự chấp thuận của NHNN, hình thức huy động vốn này các NHTM
phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi thông thường.
Qua trình bày trên, vốn huy động là nguồn vốn giữ vị trí quan trọng và
chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của các NHTM, chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong tổng nguồn vốn (khoảng 80%). Các NHTM phải tôn trọng về mức vốn
huy động theo quy định của pháp luật.
1.1.3.3. Vốn đi vay
Vốn đi vay: là khoản tiền vay muợn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả
khi khả năng huy động vốn bị hạn chế. Đây là nguồn chủ yếu để chống rủi ro
thanh khoản của các ngân hàng.
- Vay từ NHTW là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong
chi trả của NHTM. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu
(tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các NNTM chiết khấu (tái chiết
khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền ngân hàng mang những thương
phiếu này lên tái chiết khấu tại NHNN. Thông thường NHNN chỉ tái chiết
khấu cho những thương phiếu có chất lượng như thời gian đáo hạn ngắn, khả
năng trả nợ cao và phù hợp với mục tiêu của NHNN trong từng thời kỳ.
Trong điều kiện chưa có thương phiếu NHNN cho NHTM vay dưới hình thức
10
10
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”.
tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng
nhỏ trong ngân hàng, nó chủ yếu là vốn ngắn hạn, chi phí cao hay thấp phụ
thuộc vào chính sách tiền tệ của NHTW:
+ Nếu NHTW thắt chặt tiền tệ với lãi suất cao
+ Nếu mở rộng tiện tệ thì lãi suất thấp
NHTW cho vay nhằm mục đích để bảo vệ an toàn cho toàn hệ thống
ngân hàng và thực hiện chính sách tiền tệ.Vay từ NHTM khác là nguồn các
ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các TCTD khác trên thị trường liên
ngân hàng.
Với các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết quả dư gia
tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho
các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn.
Với các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ lại có nhu cầu vay mượn tức
thời để đảm bảo thanh khoản
+ Vay qua đêm là hợp đồng vay mượn bất thành văn giữa hai ngân
hàng chủ yếu thông qua điện thoại và điện tín chỉ có thời hạn không quá một
ngày
+ Vay kỳ hạn là hợp đồng vay mượn thành văn có thời hạn cụ thể (vài
tuần, vài tháng, hoặc vài năm). Thường các ngân hàng đi vay phải có giấy tờ
có giá để cầm cố đưa cho ngân hàng cho vay.
• Đây là nguồn vốn chủ yếu là ngắn hạn
• Tỷ trọng tương đối lớn đặc biệt là ngân hàng bán buôn
• Chi phí cao hay thấp phụ thuộc vào cung cầu trên thị truờng tiền tệ
Vay trên thị trường vốn: Các ngân hàng vay mựon bằng cách phát hành
các giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Các khoản
vay trung và dài hạn nhằm bổ xung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu
cho vay và đầu tư trung dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có
đảm bảo/
11
11
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”.
Ngân hàng nào có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn nhiều hơn.
Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp họ phải thông qua
các ngân hàng đại lý hoặc đựoc bảo lãnh của các ngân hàng đầu tư.
Khả năng vay mượn còn được phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị
trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của
ngân hàng.
1.1.3.4. Vốn khác
Vốn khác là toàn bộ giá tị tiền tệ mà ngân hàng huy động được thông
qua việc cung cấp các phương tiện thanh toán và cung cấp các dịch vụ ủy thác
đầu tư. Bao gồm nguồn ủy thác, nguồn thanh toán và các nguồn khác
Nguồn ủy thác là nguồn vốn mà ngân hàng có được nhờ thực hiện tốt
các dịch vụ của khách hàng đặc biẹt là dịch vụ cho vay và dịch vụ thanh toán.
- Nguồn vốn này thường có chi phí rất thấp
- Tỷ trọng nguồn vốn này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng dịch
vụ và uy tín của khách hàng.
Nguồn trong thanh toán: Nguồn này được hình thành từ các hoạt động
thanh toán không dùng tiền mặt như: Séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ
để mở L/C
Những ngân hàng này là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số
dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay.
Nguồn khác: Là các khoản nợ như thuế chưa nộp, lưong chưa trả vv.
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM tạo được một khoản
vốn gọi là vốn trong thanh toán, gồm: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài
khoản tiền gửi séc bảo chi… Các khoản tiền mặt tạm thời được trích khỏi tài
khoản này để nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng, nên được gọi là tiền nhàn
rỗi.
12
12
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”.
Qua nghiệp vụ đại lý, các NHTM thu hút được một lương vốn trong
quá trình thu - chi hộ khách hàng, làm đại lý cho tổ chức tín dụng, nhận và
chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư…
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng và nội dung biện pháp tạo vốn của
NHTM
1.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM
Mọi hoạt động kinh doanh diễn ra đều chịu sự tác động nhất định của
môi trường xung quanh. Công tác huy động vốn – một nghiệp vụ quan trọng
hàng đầu của NHTM cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong cơ chế thị
trường, các NHTM buộc phải cạch tranh để có thể thu hút được nguồn vốn
lớn với chi phí thấp để tồn tại và phát triển. Do đó, nghiên cứu các nhân tố
ảnh hưởng, tìm giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn là rất cần thiết.
Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn có nhiều và rất đa dạng,
nhưng tập trung lại có hai nhóm nhân tố là: Khách quan và chủ quan.
1.2.1.1. Nhóm nhân tố khách quan (PEST):
Bao gồm: Chính trị - pháp luật, kinh tế, môi trường xã hội và công
nghệ
- Hành lang pháp lý: Có ảnh hưởng lớn đến nghiệp vụ huy động vốn
của NHTM như luật các tổ chức tín dụng, luật NHNN… Những luật này quy
định tỷ lệ huy động vốn của NHTM so với vốn tự có, quy định việc phát hành
trái phiếu, kỳ phiếu và quy định cả mức cho vay của NHTM đối với khách
hàng…
Sự can thiệp của NHNN khi thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ
cũng ảnh hưởng tới việc huy động vốn, vì khi thực hiện chính sách tiền tệ nới
lỏng sẽ mang lại thuận lợi cho NHTM trong việc huy động vốn vay từ
NHNN. Đồng thời, nó còn có tác dụng làm giảm lãi suất trên thị trường tiền
tệ. Ngược lại, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ khó khăn hơn trong
việc huy động vốn vay từ NHNN.
13
13
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”.
Chính sách đầu tư của Nhà nước hợp hý hay không hợp lý cũng ảnh
hưởng đến chính sách huy động vốn của Ngân hàng. Để khuyến khích sản
xuất, đầu tư, Nhà nước có chính sách bảo hộ cho hàng hoá sản xuất, chính
sách trợ giá… tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển và có lãi. Các
doanh nghiệp và người lao động có tích luỹ là nền tảng để Ngân hàng huy
động vốn được nhiều hơn.
- Sự tăng trưởng của nền kinh tế: Trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng,
doanh nghiệp và cá nhân có thu nhập khá, tích luỹ được nhiều nên các khoản
tiền ký thác thường tăng nhanh để đáp ứng các giao dịch kinh tế. Mặt khác,
nền kinh tế phát triển sẽ có tác động ngược lại, nhiều doanh nghiệp mới được
thành lập, giao dịch kinh tế tăng hơn hình thành một bộ phận tích luỹ, tạo môi
trường tiềm tàng để NHTM thu hút vốn.
Chu kỳ kinh tế (phục hồi – Tăng trưởng – Bão hòa – Suy thoái).
NHTM phải tìm biện pháp huy động sao cho có hiệu quả, vừa thúc đẩy
sản xuất kinh doanh phát triển, vừa đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Ngược
lại, khi nền kinh tế suy thoái, sản xuất bị đình trệ, môi trường đầu tư của Ngân
hàng sẽ bị thu hẹp, lợi nhuận của Ngân hàng giảm, quá trình huy động vốn sẽ
gặp nhiều khó khăn. Hơn thế nữa, lạm phát làm cho đồng tiền mất giá, người
dân sẽ không gửi tiền vào Ngân hàng, mà dùng tiền để mua hàng hoá có giá
trị để cất trữ cũng ảnh hưởng đến việc huy động vốn của Ngân hàng.
Bên cạnh đó chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa quốc gia cũng
ảnh hưởng tới việc tạo vốn của ngân hàng. Nếu mở rộng tiền tệ thì sẽ huy
động vốn dễ, nếu thắt chặt tiền tệ sẽ huy động vốn khó. Khi chính sách tài
khóa thu hẹp cũng như tăng thuế, giảm chi tiêu chính phủ cũng dẫn tới tăng
thất nghiệp nên khó huy động vốn. Mặt khác lãi suất giảm sẽ không hấp dẫn
được nguồn tiết kiệm vì người có tiền sẽ chỉ quan tâm tới lãi suất dương, vậy
nên không ai muốn gửi tiền tiết kiệm.
14
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét