Thứ Năm, 27 tháng 2, 2014

Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp của EU vào Việt Nam

đoạn: (1) sản phẩm đợc nhập khẩu từ nớc ngoài để phục vụ cho nhu cầu trong n-
ớc; (2) sản phẩm trong nớc tăng lên để thay thế cho nhập khẩu; sản xuất để xuất
khẩu, FDI sẽ thực hiện ở giai đoạn cuối để đối mặt với sự thay đổi về lợi thế tơng
đối.
Ozawa là ngời tiếp theo nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI và mô hình
đàn nhạn. Theo ông, một ngành công nghiệp của nớc đang phát triển có lợi
thế tơng đối về lao động, sẽ thu hút FDI vào để khai thác lợi thế này. Tuy nhiên
sau đó tiền lơng lao động của ngành này dần dần tăng lên do lao động của địa
phơng đã khai thác hết và FDI vào sẽ giảm đi. Khi đó các công ty trong nớc đầu
t ra nớc ngoài (nơi có lao động rẻ hơn) để khai thác lợi thế tơng đối của nớc này.
Đó là quá trình liên tục của FDI. Mô hình đã chỉ ra quá trình đuổi kịp của các n-
ớc đang phát triển: khi một nớc đuổi kịp ở nấc thang cuối cùng của một ngành
công nghiệp từ kinh tế thấp sang kỹ thuật cao thì tỷ lệ FDI ra sẽ lớn hơn tỷ lệ
FDI vào. Một quốc gia đứng đầu trong đàn nhạn, đến một thời điểm nhất định sẽ
trở nên lạc hậu và nớc khác sẽ thay thế vị trí đó.
Đóng góp đáng kể của mô hình này là sự tiếp cận động với FDI trong
một thời gian dài, gắn với xu hớng và quá trình của sự phát triển, có thể áp dụng
để trả lời câu hỏi: vì sao các công ty thực hiện FDI, đa ra gợi ý đối với sự khác
nhau về lợi thế so sánh tơng đối giữa các nớc dẫn đến sự khác nhau về luồng vào
FDI.
Tuy nhiên, mô hình đàn nhạn cha thể trả lời các câu hỏi vì sao các công
ty lại thích thực hiện FDI hơn là xuất khẩu hoặc cung cấp kỹ thuật của mình, và
không dùng nó để giải thích vì sao FDI lại diễn ra giữa các nớc tơng tự về các
nhân tố và lợi thế tơng đối, vì sao FDI lại diễn ra từ khu vực kinh tế này sang
khu vực kinh tế khác. Vấn đề quan trọng hơn là mô hình này lờ đi vai trò của
nhân tố cơ cấu kinh tế và thể chế.
1.5. Lý thuyết chiết trung hay mô hình OLI:
Theo Dunning một công ty dự định tham gia vào các hoạt động FDI cần
có 3 lợi thế: (1) Lợi thế về sở hữu (Ownership advantages - viết tắt là lợi thế O -
bao gồm lợi thế về tài sản, lợi thế về tối thiểu hoá chi phí giao dịch); (2) Lợi thế
về khu vực (Locational advantages - viết tắt là lợi thế L - bao gồm: tài nguyên
của đất nớc, qui mô và sự tăng trởng của thị trờng, sự phát triển của cơ sở hạ
tầng, chính sách của Chính phủ) và (3) Lợi thế về nội hoá (Internalisation
advantages - viết tắt là lợi thế I - bao gồm: giảm chi phí ký kết, kiểm soát và thực
5
hiện hợp đồng; tránh đợc sự thiếu thông tin dẫn đến chi phí cao cho các công ty;
tránh đợc chi phí thực hiện các bản quyền phát minh, sáng chế).
Theo lý thuyết chiết trung thì cả 3 điều kiện kể trên đều phải đợc thoả mãn
trớc khi có FDI. Lý thuyết cho rằng: những nhân tố đẩy bắt nguồn từ lợi thế O
và I, còn lợi thế L tạo ra nhân tố kéo đối với FDI. Những lợi thế này không cố
định mà biến đổi theo thời gian, không gian và sự phát triển nên luồng vào FDI
ở từng nớc, từng khu vực, từng thời kỳ khác nhau. Sự khác nhau này còn bắt
nguồn từ việc các nớc này đang ở bớc nào của quá trình phát triển và đợc
Dunning phát hiện vào năm 1979.
2. Bản chất và vai trò của FDI
2.1. Bản chất :
Hiện nay ở trên nhiều loại sách báo, tạp chí của các tổ chức quốc tế cũng
nh Chính phủ các nớc có tơng đối nhiều định nghĩa về FDI, nh định nghĩa của
tổ chức Ngân hàng Thế giới thì FDI là đầu t trực tiếp nớc ngoài là đầu t từ nớc
ngoài mà mang lại lãi suất từ 10% trở lên.
Theo giáo trình Kinh tế Đầu t của trờng Đại học Kinh tế Quốc dân do
PGS. TS Nguyễn Ngọc Mai làm chủ biên thì đầu t trực tiếp của nớc ngoài (FDI)
là vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nớc ngoài đầu t sang các nớc khác và
trực tiếp quản lý hoặc tham gia trực tiếp quản lý quá trình sử dụng và thu hồi số
vốn bỏ ra.
Đến nay định nghĩa mà nhiều nớc và các tổ chức hay dùng nhất là định
nghĩa của tổ chức Tiền tệ Thế giới (IMF) đã đa ra vào năm 1977 nh sau: Đầu t
trực tiếp nớc ngoài là số vốn đầu t đợc thực hiện để thu đợc lợi ích lâu dài trong
một doanh nghiệp hoạt động ở nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu t.
Ngoài mục đích lợi nhuận, nhà đầu t còn mong muốn dành đợc chỗ đứng trong
việc quản lý doanh nghiệp và mở rộng thị trờng.
Đầu t nớc ngoài bao gồm đầu t nớc ngoài trực tiếp (FDI) và đầu t gián tiếp
(FPI). Trong đó, FDI quan trọng hơn nhiều, dù cho đầu t gián tiếp có xu hớng
tăng lên (trong năm 1992, FDI lên tới khoảng 15 tỷ USD, bằng 38% tổng chu
chuyển vốn nớc ngoài còn đầu t gián tiếp lên tới 4,7 tỷ USD). FDI tăng lên
nhanh chóng trong vòng 15 năm qua với đặc điểm tập trung co cụm về địa d,
ngành, và hãng. Hầu hết FDI diễn ra ở Đông á (Malaisia, Thái Lan, Singapore,
6
Hong Kong, Trung Quốc) và Châu Mĩ Latinh (Brazil, Mexico), trong lĩnh vực
thiết bị vận tải, hoá chất, máy móc và điện tử. Một số lợng ít các hãng lớn từ các
nớc công nghiệp chiếm một phần lớn đầu t nớc ngoài. Mô hình đầu t cũng thiên
lệch về địa lý; các hãng của Mỹ đầu t mạnh vào châu Mỹ Latinh, các hãng của
Nhật đầu t vào châu á, còn các hãng của Anh lại tập trung vào các nớc thuộc
khối Thịnh vợng Chung.
Tầm quan trọng tăng nhanh của FDI là nhờ nhận thức về những đóng góp
to lớn của FDI vào phát triển kinh tế, cung cấp cho các nớc chủ nhà về vốn,
công nghệ, và kỹ năng quản lý hiện đại. FDI chịu ảnh hởng của các yếu tố cụ
thể trong nớc chủ nhà cũng nh nớc đầu t. Với nớc chủ nhà, các yếu tố hấp dẫn
FDI là nguồn tài nguyên thiên nhiên nh khoáng sản (nh dầu mỏ ở Indonesia)
hay giá lao động rẻ mạt (nh Trung Quốc, Malaisia) cũng có vai trò quan trọng
không kém, đặc biệt khi áp dụng chính sách thay thế nhập khẩu là một cơ hội
lớn cho các nhà đầu t. Để thu hút FDI, nhiều Chính phủ đa ra các biện pháp
khuyến khích nh miễn giảm thuế, khấu hao nhanh, giảm thuế nhập khẩu đầu vào
sản xuất, đặc khu kinh tế, hay khuyến khích xuất khẩu đối với những ngời muốn
đầu t. Dù có những khuyến khích đặc biệt nh vậy nhng ngời ta nhận thấy FDI
trở nên hấp dẫn ở những nớc có môi trờng kinh tế vĩ mô và môi trờng chính trị
tốt. Chính sách bảo hộ - chống cạnh tranh của hàng ngoại nhập - của các nớc
chủ nhà đôi khi khiến các nhà đầu t đặt cơ sở sản xuất ngay tại nớc chủ nhà. FDI
cũng phụ thuộc vào các yếu tố của các nớc đi đầu t. Các hãng đầu t ra nớc ngoài
nhằm giành trớc hay ngăn chặn những hoạt động tơng tự của các đối thủ cạnh
tranh. Một số nớc cho phép các nhà đầu t đợc nhập khẩu miễn thuế một số sản
phẩm chế tạo tại các chi nhánh của họ tại nớc ngoài. Cuối cùng, phân tán rủi ro
bằng cách đầu t tại nhiều đặc điểm khác nhau cũng là một động cơ của các nhà
đầu t.
Trên đây ta có thể thấy đợc một số nét đặc trng của FDI:
- FDI mặc dù vẫn chịu sự chi phối của Chính phủ, nhng nó ít bị lệ thuộc
hơn vào quan hệ chính trị hai bên nếu so sánh với hình thức tín dụng quan hệ
quốc tế.
- Bên nớc ngoài trực tiếp tham gia quá trình kinh doanh của doanh nghiệp,
nên họ trực tiếp kiểm soát sự hoạt động và đa ra những quyết định có lợi nhất
cho việc đầu t. Vì vậy mức độ khả thi của công cuộc đầu t khá cao, đặc biệt
trong việc tiếp cận thị trờng quốc tế để mở rộng xuất khẩu.
7
- Do quyền lợi của chủ đầu t nớc ngoài gắn liền với lợi ích do đầu t đem
lại cho nên có thể lựa chọn kỹ thuật, công nghệ thích hợp, nâng cao dần trình độ
quản lý, tay nghề cho công nhân ở nớc tiếp nhận đầu t.
- FDI liên quan đến việc mở rộng thị trờng của các công ty đa quốc gia và
sự phát triển của thị trờng tài chính quốc tế và thơng mại quốc tế.
2.2. Vai trò của FDI:
2.2.1. Đối với nớc đi đầu t:
a> Đứng trên góc độ quốc gia:
Hình thức đầu t trực tiếp ra nớc ngoài là cách để các quốc gia có thể mở
rộng và nâng cao quan hệ hợp tác về nhiều mặt đối với các quốc gia khác mà
mình sẽ đầu t. Khi một nớc đầu t sang nớc khác một mặt hàng thì nớc đó thờng
có những u thế nhất định về mặt hàng nh về chất lợng, năng suất và giá cả cùng
với chính sách hớng xuất khẩu của nớc này; thêm vào đó là sự có một sự sẵn
sàng hợp tác chấp nhận sự đầu t đó của nớc sở tại cùng với những nguồn lực
thích hợp cho sản phẩm đó. Mặt khác, khi đầu t FDI nớc đi đầu t có rất nhiều có
lợi về kinh tế cũng nh chính trị.
Thứ nhất, quan hệ hợp tác với nớc sở tại đợc tăng cờng và vị thế của nớc
đi đầu t đợc nâng lên trên trờng quốc tế.
Thứ hai, mở rộng đợc thị trờng tiêu thụ sản phẩm, khi trong nớc sản phẩm
đang thừa mà nớc sở tại lại thiếu.
Thứ ba, giải quyết công ăn việc làm cho một số lao động, vì khi đầu t sang
nớc khác, thì nớc đó phải cần có những ngời hớng dẫn, hay còn gọi là các
chuyên gia trong lĩnh vực này. Đồng thời tránh đợc việc phải khai thác các
nguồn lực trong nớc, nh tài nguyên thiên nhiên hay ô nhiễm môi trờng.
Thứ t, đó là vấn đề chính trị, các nhà đầu t nớc ngoài có thể lợi dụng
những kẻ hở của pháp luật, sự yếu kém về quản lý hay sự u đãi của Chính phủ n-
ớc sở tại sẽ có những mục đích khác nh làm gián điệp.
b> Đứng trên góc độ doanh nghiệp:
Mục đích của doanh nghiệp cũng nh mục đích của một quốc gia thờng là
lợi nhuận, lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Một khi trong nớc hay các thị trờng
quen thuộc bị tràn ngập những sản phẩm của họ và sản phẩm cùng loại của đối
thủ cạnh tranh thì họ phải đầu t ra nớc khác để tiêu thụ số sản phẩm đó. Trong
khi đầu t ra nớc ngoài, họ chắc chắn sẽ tìm thấy ở nớc sở tại những lợi thế so
sánh so với thị trờng cũ nh lao động rẻ hay tài nguyên cha bị khai thác nhiều.
8
Một nguyên nhân nữa là họ có thể bán đợc những máy móc và công nghệ
cũ kỹ lạc hậu hay bị hao mòn vô hình do thời gian với giá cao nhng lại là mới
đối với nớc nhận đầu t (khi nớc đầu t là nớc đang phát triển).
Thêm vào đó, là sản phẩm của họ đợc bán tại thị trờng này sẽ ngày càng
tăng uy tín và tiếng tăm cho nó và làm tăng sức cạnh tranh đối với các đối thủ có
sản phẩm cùng loại.
2.2.2. Đối với nớc nhận đầu t:
* Những mối lợi:
a> Chuyển giao vốn, công nghệ và năng lực quản lý (chuyển giao nguồn
lực): Đối với một nớc lạc hậu, trình độ sản xuất kém, năng lực sản xuất cha đợc
phát huy kèm với cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn thì việc tiếp thu đợc một
nguồn vốn lớn, công nghệ phù hợp để tăng năng suất và cải tiến chất lợng sản
phẩm, trình độ quản lý chặt chẽ là một điều hết sức cần thiết.
Nh ta đã biết thì công nghệ chính là trung tâm của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá một đất nớc đang phát triển nh nớc ta. Chúng ta cần có vốn và
công nghệ để có thể thực hiện đợc nó. Khi đầu t trực tiếp diễn ra thì công nghệ
đợc du nhập vào trong đó có cả một số công nghệ bị cấm xuất theo con đờng
ngoại thơng, các chuyên gia cùng với các kỹ năng quản lý sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả của công nghệ này, do vậy các cán bộ bản địa có thể học hỏi kinh
nghiệm của họ.
Trên thực tế có nhiều mức độ phụ thuộc khác nhau vào nguồn FDI ở các
nớc đang phát triển. Từ năm 1973, khi có nhiều nớc chuyển sang đi vay các nớc
khác, những luồng vốn chảy vào đó đã góp phần quan trọng cho việc hình thành
vốn của một vài nớc đang phát triển. Giữa năm 1979 và năm 1981, luồng vốn
đầu t trực tiếp chiếm khoảng 25% trong tổng số vốn cố định đợc đầu t của
Singapore; 11% ở Malaixia; gần 5% ở Chile và Philipines; khoảng 15% tại
Brazil, Indonesia, Mehico, còn ở Hàn Quốc, ấn Độ và Nigeria không đáng kể.
Tuy nhiên, những con số này cha phản ánh đủ sự đóng góp của các doanh
nghiệp thuộc sở hữu nớc ngoài vào tổng số vốn đợc đầu t. Lợi nhuận tái đầu t đã
không đợc kể đến ở một số nớc đang phát triển; ngoài ra, quĩ khấu hao của các
doanh nghiệp FDI đã trang trải cho một phần cơ bản của các khoản chi tiêu
trong tổng số vốn của các nớc này, mà lại không đa vào định nghĩa FDI.
Có những khác biệt lớn giữa các nớc về mức độ thay thế của FDI cho các
luồng vốn nớc ngoài khác, do những khác biệt trong cơ cấu kinh tế có những tác
9
động đến sức hấp dẫn của đất nớc đối với các nhà đầu t, cũng nh những khác
biệt trong các yếu tố kinh tế vĩ mô đòi hỏi phải có các luồng vốn chảy vào. Các
nớc có thị trờng nhỏ bé, ít các nguồn lực tự nhiên, kết cấu hạ tầng yếu kém và ít
khả năng xuất khẩu hàng công nghiệp thì ít có khả năng thu hút các nguồn FDI
lớn, ngay cả khi có những qui chế tự do và những u đãi hào phóng. Về cơ bản,
các nớc đó nói chung cũng không có khả năng vay nợ theo các điều kiện thơng
mại thông thờng, và chủ yếu dựa vào kết quả u đãi. Kết quả là những khả năng
thay thế giữa tín dụng thơng mại nớc ngoài và FDI chủ yếu có liên quan tới các
nớc lớn, có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, hoặc có khu vực công nghiệp
khá phát triển. Các nớc đã có đợc một số lợng lớn các nguồn FDI nói chung
cũng sẽ dễ tác động hơn tới cơ cấu tơng lai của nguồn vốn, bởi vì họ cũng có thể
tác động tới hoạt động FDI thông qua cơ cấu tài chính của các chi nhánh hiện
hữu thuộc các công ty nớc ngoài, và cụ thể là tới số lợng vay từ các nguồn trong
nớc và các nguồn khác ở nớc ngoài. Nhng so với vay nớc ngoài, FDI có xu hớng
tập trung nhiều hơn tại một số ít nớc.
Những nguyên nhân kinh tế vĩ mô của các luồng vốn vào cũng có thể ảnh
hởng lớn tới mức độ thay thế giữa FDI và tín dụng thơng mại với t cách là nguồn
vốn nớc ngoài. Tại các nớc có các thị trờng vốn phát triển, các nguồn gốc mất
cân bằng kinh tế vĩ mô riêng lẻ có thể chỉ có tác động hạn chế tới cơ cấu luồng
vốn vào. Tuy nhiên, phần lớn các nớc đang phát triển đều có các thị trờng vốn
trong nớc phân tán, và đối với các nớc này, những nguyên nhân làm cho luồng
vốn chảy vào có ý nghĩa lớn hơn. Có ba loại yếu tố khiến cần thiết phải có các
luồng vốn chảy vào ngày càng nhiều, thể hiện khả năng thay thế khác nhau giữa
FDI và vay nớc ngoài.
Thứ nhất là, tổng cầu có thể tăng lên tơng đối so với tổng cung do chỉ tiêu
tăng thêm vào các dự án đầu t mà chúng đợc coi là có khả năng thành công về
mặt tài chính. Nếu hoạt động đầu t ấy diễn ra trong khu vực t nhân thì khả năng
thay thế sẽ cao, miễn là các qui định về thuế khoá và qui chế tỏ ra thích hợp đối
với FDI. Nếu hoạt động đầu t ấy đợc thực hiện chủ yếu bởi các doanh nghiệp
nhà nớc, thì tại nhiều nớc, khả năng thay thế sẽ thấp do các hàng rào thể chế
ngăn cản hoạt động FDI. Tuy nhiên, vẫn có khả năng lớn cho sự tham gia cổ
phần của nớc ngoài thông qua những thoả thuận đầu t liên doanh với các doanh
nghiệp nhà nớc thích hợp, với điều kiện những hình thức này là phù hợp với ph-
ơng hớng phát triển chung của nớc nhận đầu t. Những thoả thuận nh vậy là phổ
biến trong ngành thăm dò và khai thác khoáng sản, một ngành có nhiều rủi ro
với vốn cổ phần nớc ngoài hoạt động liên kết với các công ty nhà nớc, nhng
10
chúng còn đợc thấy rõ trong nhiều khu vực khác nữa. Brazil đã khuyến khích
hoạt động đầu t liên doanh, bao gồm sự kết hợp của nhà nớc với vốn cổ phần t
nhân trong nớc cũng nh nớc ngoài, đặc biệt là trong ngành công nghiệp hoá dầu.
Kinh nghiệm của Trung Quốc, một nớc hiện nay đang sử dụng nguồn FDI nhiều
hơn so với hình thức vay tín dụng thơng mại nớc ngoài, cho thấy rằng hệ thống
doanh nghiệp nhà nớc không nên cản trở sự thay thế giữa các hình thức khác
nhau của vốn nớc ngoài. Một biện pháp chính để thờng xuyên thay thế đó là
việc đa ra những bảo đảm của nhà nớc đối với các khoản vay do các doanh
nghiệp nhà nớc vay của ngân hàng thơng mại nớc ngoài. Điều này làm giảm bớt
chi phí vay tín dụng thơng mại cho doanh nghiệp, vì nhà nớc gánh chịu một
phần sự rủi ro của ngời cho vay, do vậy, nó trở nên tơng đối hấp dẫn hơn đối với
các doanh nghiệp nhà nớc, nếu so với hình thức tham gia cổ phần của phía nớc
ngoài.
Thứ hai là, tổng cầu có thể tăng lên tơng đối so với tổng cung, do chi tiêu
nhiều hơn cho tiêu dùng hoặc cho các dự án đầu t đợc coi nh không khả thi về
tài chính (bao gồm các dự án về kết cấu hạ tầng có thể đa lại lợi nhuận kinh tế
nói chung cao hơn, nhng lại không tạo ra một nguồn thu trực tiếp nào). Sự vợt
quá của nhu cầu nh vậy thờng xảy ra ở dới dạng những thâm hụt lớn về tài
chính, ví dụ nh chi tiêu nhà nớc vào các khoản trợ cấp, các khoản trả lơng cao
hơn hoặc sự mở rộng kết cấu hạ tầng xã hội. Trong trờng hợp này, FDI khó có
thể thay thế việc Chính phủ hoặc ngân hàng TW đi vay nớc ngoài. Sẽ không có
những dự án đầu t bổ xung có khả năng thu hút các nhà đầu t trực tiếp. Về
nguyên tắc, khoản vay mợn cao hơn ở trong nớc do Chính phủ thực hiện sẽ làm
tăng mức lãi suất ở trong nớc và dẫn tới các luồng vốn chảy vào hoặc đầu t trực
tiếp lớn hơn. Tuy nhiên, trong thực tế, những ảnh hởng gián tiếp đó tới các
luồng vốn nớc ngoài là có hạn, bởi vì ở nhiều nớc đang phát triển, thị trờng vốn
bị phân tán và không có các chính sách linh hoạt.
Cuối cùng, một phần vốn vay nớc ngoài của các nớc đang phát triển th-
ờng không dùng để trang trải cho sự gia tăng trong tổng chi phí quốc nội mà để
bù vào luồng vốn chảy ra của t nhân. Khả năng thay thế sự vay mợn đó bằng đầu
t trực tiếp là thấp, đặc biệt là do chính sách tỷ giá hối đoái và lãi suất không
thích hợp. Những chính sách này thờng gây ra sự thất thoát vốn, và nh vậy cũng
thờng không thúc đẩy đợc hoạt động FDI.
Do đó, mức độ thay thế vay nớc ngoài bằng FDI trong thập kỷ vừa qua
của các nớc đang phát triển có lẽ phụ thuộc vào cách thức sử dụng khoản vay m-
11
ợn đó. Phần lớn số vốn vay sau hai lần tăng đột biến giá dầu lửa là nhằm hỗ trợ
cho thâm hụt cán cân thanh toán ngắn hạn. Đối với khoản vay đó, khả năng
thay thế là rất thấp. Tuy nhiên, phạm vi chuyển dịch giữa các hình thức vốn vào
có lẽ đã tăng lên theo độ dài của thời kỳ diễn ra sau sự mất cân đối đối ngoại ban
đầu. Về vấn đề này, bằng chứng nêu ra trên tờ Triển vọng Kinh tế Thế giới 1983
về nguồn vốn đã cho thấy rằng, đối với hầu hết các nớc vay mợn lớn nhất trong
số các nớc đang phát triển không sản xuất dầu lửa, sự gia tăng nợ nớc ngoài
trong thập kỷ vừa qua đã gắn liền với mức đầu t cao hơn và phần lớn không sử
dụng vào việc chi cho tiêu dùng. Tuy nhiên, một bộ phận đầu t lớn cần đợc dành
cho các dự án về kết cấu hạ tầng, nhng chúng không thu hút đợc FDI.
Những hoạt động chuyển giao công nghệ (bao gồm cả năng lực quản lý
và marketing) khó đo lờng hơn so với các luồng chảy vào, nhng phần lớn
chuyển giao đã diễn ra ở công ty mẹ ở nớc ngoài và các chi nhánh của chúng.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng tầm quan trọng của các hoạt động chuyển giao
công nghệ trong nội bộ các công ty nh thế tuỳ thuộc vào những chuyển giao từ
các phía khác nhau. Tại Hàn Quốc là nơi FDI đợc điều chỉnh và hớng vào các
khu riêng biệt, gần 3/4 số hợp đồng cấp giấy phép sản xuất của nớc ký kết; tuy
nhiên, ở Singapore là nơi có tơng đối ít những hạn chế về đầu t trực tiếp, hầu hết
các hợp đồng cấp giấy phép sản xuất đã đợc ký kết bởi các công ty có ít nhất
một phần thuộc quyền sở hữu nớc ngoài. Trong các ngành sử dụng kỹ thuật mới
hoặc kỹ thuật đặc thù của doanh nghiệp (nh các ngành điện tử), đa số các hoạt
động chuyển giao diễn ra giữa các công ty mẹ và chi nhánh thuộc quyền sở hữu
hoàn toàn hoặc sở hữu một phần lớn của công ty mẹ; do có sự lo lắng tới việc
duy trì sự kiểm soát chặt chẽ đối với kỹ thuật công nghệ có liên quan. Tuy
nhiên, trong nhiều ngành khác, các hoạt động chuyển giao công nghệ diễn ra
thông qua các hợp đồng cấp giấy phép sản xuất khác nhau đã tăng lên nhanh
hơn so với sự chuyển giao công nghệ thông qua FDI.
b> Các nhà đầu t gánh chịu rủi ro: Đầu t trực tiếp khác với đầu t gián tiếp
là nhà đầu t phải tự đứng ra quản lý đồng vốn của mình, tự chịu trách nhiệm trớc
những quyết định đầu t của mình, do vậy độ rủi ro cao hơn so với đầu t gián tiếp.
Các nớc nhận đầu t trực tiếp do vậy cũng không phải lo trả nợ hay nh đầu t gián
tiếp theo mức lãi suất nào đó hay phải chịu trách nhiệm trớc sự phá sản hay giải
thể của nhà đầu t nớc ngoài.
c> Tăng năng suất và thu nhập quốc dân; cạnh tranh hơn, hiệu quả kinh tế
hơn: Do có công nghệ cùng với trình độ quản lý đợc nâng lên nên đối với các
ngành sản xuất thì việc tăng năng suất là điều tất yếu. Không những thế những
12
công nghệ này còn cho ra những sản phẩm có chất lợng cao hơn, tính năng đa
dạng hơn, bền hơn và với những mẫu mã đa dạng, hàng hoá lúc này sẽ nhiều và
tất nhiên sẽ rẻ hơn so với trớc. Điều này chính là cung tăng lên nhng thực ra nó
tăng lên để đáp ứng lại lợng cầu cũng tăng lên rất nhanh do quá trình đầu t có
tác động vào. Tốc độ quay của vòng vốn tăng lên nhanh hơn, do vậy sản phẩm
cũng đợc sản xuất ra nhiều hơn và tiêu thụ cũng nhiều hơn. Do sự tiêu thụ đợc
tăng lên do vậy các ngành sản xuất, dịch vụ đợc tiếp thêm một luồng sức sống
mới, nhân lực, máy móc và các nguyên vật liệu đợc đem ngay vào sản xuất, từ
đó sức đóng góp của các ngành này vào GDP cũng đã tăng lên.
Việc có đợc những công ty có hiệu quả với khả năng cạnh tranh trên thị
trờng thế giới có thể đa lại một sự khai thông quan trọng, tiềm tàng cho việc
chuyển giao các kỹ năng quản lý và công nghệ cho các nớc chủ nhà. Điều này
có thể xảy ra ở bên trong một ngành công nghiệp riêng rẽ, trong đó có những
ngời cung ứng các đầu vào cho các chi nhánh nớc ngoài, những ngời tiêu dùng
trong nớc đối với các sản phẩm của chi nhánh này và những đối thủ cạnh tranh
của chúng, tất cả đều muốn lựa chọn những phơng pháp kỹ thuật có hiệu quả
hơn. Nó cũng có thể diễn ra một cách rộng rãi hơn trong nội bộ nền kinh tế
thông qua sự tăng cờng có kết quả công tác đào tạo và kinh nghiệm của lực lợng
lao động và thông qua sự khuyến khích có thể có đối với các ngành hỗ trợ tài
chính và kỹ thuật có khả năng dẫn tới sự hạ thấp toàn bộ chi phí công nghiệp.
d> Khuyến khích năng lực kinh doanh trong nớc: Do có các nhà đầu t nớc
ngoài nhảy vào các thị trờng vốn có các nhà đầu t trong nớc chiếm giữ phần lớn
thị phần, nhng u thế này sẽ không kéo dài đối với nhà đầu t trong nớc khi u thế
về nguồn lực của nhà đầu t nớc ngoài trội hơn hẳn. Chính vì vậy các nhà đầu t
trong nớc phải đổi mới cả quá trình sản xuất của mình từ trớc từ khâu sản xuất
đến khâu tiêu thụ bằng việc cải tiến công nghệ và phơng pháp quản lý để có thể
trụ vững trên thị trờng đó. Đó chính là một trong những thử thách tất yếu của
nền kinh tế thị trờng đối với các nhà sản xuất trong nớc, không có kẻ yếu nào có
thể tồn tại nếu không tự nó làm mình mạnh lên để sống trong cơ chế đó.
e> Tiếp cận với thị trờng nớc ngoài: Nếu nh trớc đây khi cha có FDI, các
doanh nghiệp trong nớc chỉ biết đến có thị trờng trong nớc, nhng khi có FDI thì
họ đợc làm quen với các đối tác kinh tế mới không phải trong nớc. Họ chắc
chắn sẽ nhận thấy rất nhiều nơi cần cái họ đang có, và họ cũng đang cần thì ở
nơi đối tác lại có, do vậy cần phải tăng cờng hợp tác sẽ có nhiều sản phẩm đợc
xuất khẩu để thu ngoại tệ về cho đất nớc đồng thời cũng cần phải nhập khẩu một
13
số loại mặt hàng mà trong nớc đang cần. Từ các việc trao đổi thơng mại này sẽ
lại thúc đẩy các công cuộc đầu t giữa các nớc. Nh vậy quá trình đầu t nớc ngoài
và thơng mại quốc tế là một quá trình luôn luôn thúc đẩy nhau, hỗ trợ nhau và
cùng phát triển.
f> Chuyển đổi cơ cấu kinh tế: Đầu t nớc ngoài góp phần tích cực trong
việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế của nớc sở tại theo chiều hớng tích cực hơn. Nó
thờng tập trung vào những ngành công nghệ cao có sức cạnh tranh nh công
nghiệp hay thông tin. Nếu là một nớc nông nghiệp thì bây giờ trong cơ cấu kinh
tế các ngành đòi hỏi cao hơn nh công nghiệp và dịch vụ đã tăng lên về tỷ trọng
và sức đóng góp cho Ngân sách, GDP và cho xã hội nói chung. Ngoài ra về cơ
cấu lãnh thổ, nó có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các
vùng lãnh thổ, đa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói,
phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, đa những tiềm năng cha
khai phá vào quá trình sản xuất và dịch vụ, và làm bàn đạp thúc đẩy những vùng
khác cùng phát triển.
* Những thua thiệt:
a> Vốn nớc ngoài rất hạn chế: Mặc dù tính tổng thể vốn đầu t trực tiếp
lớn hơn và quan trọng hơn đầu t gián tiếp, nhng so với đầu t gián tiếp thì mức
vốn trung bình của một dự án đầu t là thờng nhỏ hơn nhiều. Do vậy tác động kịp
thời của một dự án đầu t trực tiếp cũng không tức thì nh dự án đầu t gián tiếp.
Hơn thế nữa các nhà đầu t trực tiếp thờng thiếu sự trung thành đối với thị trờng
đang đầu t, do vậy luồng vốn đầu t trực tiếp cũng rất thất thờng, đặc biệt khi cần
vốn đầu t trực tiếp thì nó lại rất ít làm ảnh hởng đến kế hoạch kinh tế chung của
đất nớc nhận đầu t.
b> Công nghệ không thích hợp, giá chuyển nhợng nội bộ cùng với việc
giảm tính linh hoạt trong xuất khẩu, ảnh hởng đến cán cân thanh toán: ngời ta
cho rằng các công ty có sự kiểm soát nớc ngoài có thể sử dụng các kỹ thuật sản
xuất sử dụng nhiều t bản là chủ yếu (mà chúng sẵn có, nhng không thích hợp)
dẫn tới sự chuyển giao công nghệ không đầy đủ ở mức chi phí quá cao (để duy
trì u thế công nghệ), định ra những giá cả chuyển nhợng giao cao một cách giả
tạo (để bòn rút lợi nhuận quá mức), gây ra sự căng thẳng cho cán cân thanh
toán (bởi vì với t cách là một bộ phận của các chi nhánh sản xuất đa quốc gia,
các doanh nghiệp đó có thể có ít khả năng hơn so với các công ty thuộc quyền
kiểm soát trong nớc trong việc mở rộng xuất khẩu, và có thể phải lệ thuộc nhiều
vào hàng nhập khẩu). Bản chất thông tin của công nghệ đợc chuyển giao, cho
nên nó đợc chuyển giao trong một thị trờng không hoàn hảo cao độ mà trong đó
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét