Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2014

GIÁO TRÌNH KIẾN THỨC TRỒNG RAU

Tác giả Trần Khắc Thi cho biết, hiệu quả kinh tế của sản xuất rau cũng cao hơn so
với nhiều loại cây trồng khác. Giá trị sản xuất 1 ha rau gấp 2-3 lần so với cây lúa. Theo
số liệu điều tra của Nguyễn Tiến Mạnh năm 1999, ở 4 tỉnh Hà Nội, Hà Tây, Nam Định
và Thái Bình tổng thu nhập trên 1 ha lúa là 3.830.000 đồng, ngô là 3.333.000 đồng,
khoai tây là 15.641.000 đồng, cải bắp là 11.743.000 đồng và dưa chuột là 23.532.000
đồng. So sánh hiệu quả kinh tế giữa công thức luân canh ở đồng bằng sông Hồng tác giả
cho biết tổng thu nhập trên đất chuyên canh cao hơn 2 lần so với trên đất 1 lúa - 2 màu
và cao hơn 3 lần so với 2 lúa - 1 màu.
Kết quả điều tra của Tô Thị Thu Hà và Nguyên Văn Hiền (2005), tại vùng ven đô
Hà Nội thu nhập của việc trồng rau cao gấp 4 lần so với các cây lương thực, trong khi
chi phí chỉ gấp 2 lần, điều này dẫn đến lãi thuần của cây rau cao hơn 14 lần so với cây
lương thực.
Theo số liệu Trung tâm phát triển rau châu Á cho biết ở Đài Loan năng suất của
cây rau cũng cao hơn nhiều so với cây lúa, trung bình tổng thu nhập rau cao hơn lúa từ 3
đến 10 lần.
Ngoài việc dùng rau làm cây thực phẩm, một số loại rau như khoai tây còn được
coi là một trong năm cây lương thực trên thế giới sau lúa, ngô, mỳ, mạch. Khoai tây
hiện là nguồn tinh bột chủ yếu của nhiều nước.
Bên cạnh đó rau còn là nguồn nguyên liệu cung cấp cho ngành thực phẩm như
công nghệ sản xuất nước giải khát, đồ hộp, bánh kẹo và làm hương liệu chế biến thuốc,
dược liệu. Ngoài ra rau còn góp phần phát triển ngành kinh tế khác như chăn nuôi (là
nguồn thức ăn trong chăn nuôi).
1.1.3. Ý nghĩa về mặt xã hội
Sản xuất rau phát triển sẽ góp phần sắp xếp lao động hợp lý, tăng thu nhập cho
người lao động, mở rộng thêm ngành nghề, giải quyết tốt việc làm cho nông dân lúc
nông nhàn, ngoài ra còn hỗ trợ các ngành khác trong nông nghiệp phát triển như làm
thức ăn cho chăn nuôi
Nghề trồng rau phát triển, người nông dân có cơ hội được tiếp thu các kỹ thuật tiến
bộ mới trong sản xuất, từ đó góp phần nâng cao dân trí, thay đổi tập quán canh tác lạc
hậu từ bao đời nay của nông dân Việt Nam.
Như vậy, rau không chỉ là cây trồng xoá đói giảm nghèo mà còn là cây trồng mang
lại hiệu quả kinh tế cao, đồng thời có lợi ích nhiều mặt cho người dân, từ cây rau người
nông dân có thể làm giàu chính đáng trên mảnh đất của mình.
1.2 Tình hình sản xuất rau trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình phát triển rau trên thế giới
Hiện nay trên thế giới có nhiều chủng loại rau được gieo trồng, diện tích trồng rau
ngày càng gia tăng để đáp ứng nhu cầu về rau của người dân. Năm 1961 - 1965 tổng lượng
rau của thế giới là 200.234 tấn, nhưng từ năm 1971 - 1975 tổng lượng rau đạt 293.657 tấn
và từ năm 1981-1985 là 392.060 tấn, đến năm 1996 đã lên đến 565.523 tấn. Như vậy
5
chúng ta thấy sản lượng rau trên thế giới tăng lên rất nhanh, điều đó chứng tỏ nhu cầu rau
của con người ngày càng tăng.
Trong nhiều năm gần đây, tình hình sản xuất rau trên thế giới không ngừng phát
triển cả về diện tích và sản lượng, số liệu được FAO thống kê và được trình bày tại
bảng 1.2.
Bảng 1.2 Tình hình sản xuất rau trên thế giới
Chỉ tiêu
2003 2004 2005 2006 2007
Diện tích
(ha)
50.023.341 51.834.813 52.946.202 52.047.395 52.444.669
Năng suất
(tạ/ha)
168 168 170 170 170
Sản lượng
(tấn)
841.460.320 873.417.121 891.182.896 889.742.585 893.432.504
Nguồn : F. A. O Stat Database Results, 2009
Theo thống kê của FAO, diện tích trồng rau năm 2003 là 50.023.341 ha nhưng đến
năm 2007 đã mở rộng lên tới 52.444.669 ha, tăng so với năm 2003 là 2.421.328 ha, bình
quân mỗi năm tăng 484.266 ha. Như vậy, diện tích trồng rau trên thế giới hiện đang tăng lên,
nguyên nhân là do người nông dân chuyển một phần diện tích trồng cây ngũ cốc và cây lấy
sợi sang trồng rau.
Năng suất rau bình quân trên thế giới không biến động nhiều đạt từ 168 – 170 tạ/ha qua
5 năm, bởi hiện nay mục đích trồng rau không tập trung về tăng năng suất mà chú trọng hơn
đến việc tăng chất lượng của sản phẩm.
Về sản lượng rau, hàng năm thu được theo chiều hướng tăng dần, tính đến năm 2007
đạt 893.432.504 tấn, tăng hơn so với năm 2003 là 51.972.184 tấn. Nếu năm 2007 tổng sản
lượng rau trên toàn thế giới đạt 893.432.504 tấn thì Châu Á chiếm khoảng 75 % tổng sản
lượng toàn thế giới.
1.3 Tình hình sản xuất rau Châu Á
Chỉ tiêu
2004 2005 2006 2007
Diện tích
(ha) 35263666 36367719 37822942 38394191
Năng suất
(tạ/ha) 172 173 173 174
Sản lượng
(tấn) 608765100 630432135 654367417 670763162
Nguồn : F. A. O Stat Database Results, 2009
6
Bảng 1.4 Tình hình sản xuất rau Trung Quốc
Chỉ tiêu
2003 2004 2005 2006 2007
Diện tích
(ha) 20474144 21564190 22150677 22999771 23717182
Năng suất
(tạ/ha) 195 190 191 190 190
Sản lượng
(tấn) 399245808 409719610 423077930 436995649 450626458
Nguồn : F. A. O Stat Database Results, 2009
Trung Quốc là nước có sản lượng rau cao nhất thế giới đạt 448.982.800 tấn, cao hơn
nhiều so với Mỹ, Nhật, Pháp, Thái Lan, Việt Nam và nhiều nước khác. Ở Châu Á, Trung
Quốc là nước có sản lượng rau cao nhất tiếp theo là Ấn Độ, còn ở nước ta sản lượng rau ở
mức thấp đạt 7.991.000 tấn. Bên cạnh sự gia tăng về năng suất và sản lượng thì chất lượng
rau cũng được nhiều nước trên thế giới quan tâm, nhiều công nghệ tiên tiến ra đời và việc
kiểm soát dư lượng hoá chất tồn đọng trong rau ngày càng được thực hiện triệt để hơn.
Về nhu cầu tiêu thụ rau trên thế giới, theo FAO dự báo từ nay cho đến năm 2010
hàng năm tăng bình quân 3,6 %, trong khi đó tốc độ tăng trưởng về sản lượng chỉ
khoảng 2,8 %, như vậy thị trường rau trên thế giới chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ.
Trong những năm qua nhu cầu nhập khẩu rau bình quân trên thế giới tăng 1,8 % mỗi
năm. Các nước và vùng lãnh thổ có nhu cầu nhập khẩu rau cao đó là Pháp, Đức, Canada
khoảng 155.000 tấn mỗi năm; Anh, Mỹ, Bỉ, Hồng Công, Singapo khoảng 120.000 tấn
mỗi năm. Một số nước có lượng rau xuất khẩu lớn trên thế giới đó là: Trung Quốc
(609.000 tấn/năm); Italia, Hà Lan mỗi nước xuất khẩu khoảng 140.000 tấn/ năm. Theo
dự báo của FAO, ước tính đến năm 2010 giá xuất khẩu rau tươi khoảng 526 USD/tấn và
giá nhập khẩu khoảng 703 USD/tấn, như vậy rau tươi là một trong những mặt hàng
nông nghiệp xuất khẩu có giá trị, hơn nữa nhu cầu rau trên thế giới ngày một tăng, bởi
vậy rau có vị trí lớn trên thị trường thế giới.
1.2.2. Tình hình phát triển rau ở Việt Nam
Tác giả Tạ Thu Cúc cho biết, nước ta có lịch sử trồng rau từ lâu đời, ngay từ đời vua
Hùng, người ta đã phát hiện thấy bầu, bí được trồng trong vườn gia đình. Theo sổ sách ghi
chép cây rau được nhập vào nước ta từ thế kỷ thứ X. Thế kỷ thứ XVIII Lê Quý Đôn đã
tổng kết các vùng phân bố rau trong cả nước. Vào giữa thế kỷ thứ XVIII đến thế kỷ thứ
IXX nhân dân ta đã biết trồng cải trắng và cải bẹ đông dư, cuối thế kỷ thứ IXX trồng được
rất nhiều các loại rau có nguồn gốc từ Châu Âu như cải bắp, su hào, súp lơ, cà rốt, hành
tây… thế kỷ thứ XX các vùng trồng chuyên canh rau đã được hình thành và phát triển. Mặc
dù nghề trồng rau ở nước ta ra đời từ rất sớm, trước cả nghề trồng lúa nước nhưng sản xuất
7
rau còn manh mún, các chủng loại rau còn nghèo nàn, diện tích và sản lượng rau thấp so
với tiềm năng đất đai, khí hậu Việt Nam.
Tác giả Trần khắc Thi cho biết, năm 1995 cả nước có diện tích trồng rau là 368,5 ha,
đạt sản lượng là 4145,56 triệu tấn, nếu so với năm 1985 thì diện tích tăng 46,4%, bình
quân mỗi năm tăng 10.000 ha. Diện tích trồng rau trong cả nước tính đến năm 2000 là
445.000 ha, tăng 261.090 ha vào khoảng 70% so với năm 1990. Bình quân hàng năm
tăng 18,4 nghìn ha (mức tăng trung bình 7%/ năm). Trong đó các tỉnh phía Bắc là
249.200 ha chiếm 56%, còn các tỉnh phía Nam là 196.000 ha chiếm 44% diện tích canh
tác.
Bảng 1.5. Tình hình sản xuất rau ở Việt Nam
Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007
Diện tích
(Ha)
648.290 660.600 670.600 670.600 670.600
Năng suất
(tạ/ha)
117 117 119 119 119
Sản lượng
(tấn)
7.601.175 7.781.000 7.991.000 7.991.000 7.991.000
Nguồn : F. A. O Stat Database Results, 2009
Theo số liệu thống kê của FAO, những năm gần đây, diện tích trồng rau của ta
ngày càng được mở rộng từ 648.290 ha năm 2003 lên 670.600 ha năm 2007. Diện tích
tăng nhanh nhất từ năm 2003 đến 2005, qua hai năm diện tích tăng 22,3 ha. Từ năm
2005 trở lại đây diện tích trồng rau không có biến động, cả nước đạt 670.600 ha.
Theo tài liệu của tác giả Phạm Thị Thuỳ, rau ở nước ta năng suất còn thấp và bấp
bênh, năm 1998 năng suất cao nhất cũng chỉ đạt 144,8 tạ/ha bằng 80% so với mức trung
bình của toàn thế giới (xấp xỉ 180 ta/ha). Nếu so với năm 1990 là 123,5 tạ thì năng suất bình
quân cả nước trong 10 năm cũng chỉ tăng 11,5 tạ/ha. Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, TP.Hồ
Chí Minh, Đà Lạt là các tỉnh có năng suất rau cao hơn cả nhưng cũng chỉ đạt năng suất bình
quân ở mức 160 tạ/ha. Năng suất trung bình thấp nhất là ở các tỉnh miền Trung, chỉ bằng
một nửa so với năng suất trung bình cả nước. Nhưng theo số liệu thống kê của FAO, những
năm gần đây năng suất tương đối ổn định, đạt 119 tạ/ha.
Sản lượng rau có chiều hướng gia tăng, năm 2000 đạt hơn 6 triệu tấn, tăng 81% so
với năm 1990, mức tăng sản lượng trung bình hàng năm từ năm 1990 - 2000 là xấp xỉ
260 ngàn tấn. Do diện tích tăng nhanh dẫn đến sản lượng rau ở nước ta tăng lên đáng
kể, từ 7.601.175 tấn năm 2003 tăng lên 7.991.000 tấn năm 2007, như vậy chỉ trong 5
năm sản lượng tăng 389.825 tấn. Sản lượng rau của nước ta chủ yếu thu được từ hai
vùng chính đó là vùng rau chuyên canh ven thành phố và vùng rau luân canh với cây
lương thực.
8
Tuy nhiên cùng với sự hình thành phát triển của các thành phố, khu công nghiệp,
khu dân cư thì các vùng trồng rau mới, được hình thành và phát triển nhằm cung cấp
thực phẩm cho người tiêu dùng.
Hiện nay, rau ở nước ta được sản xuất theo 2 phương thức tự cung tự cấp và hàng hoá,
trong đó rau hàng hoá được tập trung chính ở hai khu vực:
Vùng sản xuất rau chuyên canh tập trung ven thành phố, khu tập trung đông dân
cư. Sản phẩm chủ yếu cung cấp cho người dân phi nông nghiệp, với nhiều chủng loại
rau phong phú (gần 80 loài với 15 loài chủ lực), hệ số sử dụng đất cao (4,3 vụ/năm),
trình độ thâm canh của nông dân khá nhưng sản phẩm rau ở những vùng này về mức độ
an toàn đáng lo ngại.
Vùng rau luân canh: đây là vùng có diện tích, sản lượng lớn, cây rau được trồng
luân canh với cây lúa hoặc một số cây màu. Sản phẩm phục vụ cho dân cư trong vùng,
ngoài vùng, cho công nghiệp chế biến và cho xuất khẩu.
Hiện nay chúng ta có một số vùng trồng rau hàng hoá tập trung:
Miền Bắc:
+ Vùng trồng rau chuyên canh ở Hà Nội có diện tích gieo trồng khoảng 81.000
ha, với các chủng loại rau đa dạng và phong phú, chiếm ưu thế cả về diện tích và sản
lượng, là vùng có tỷ suất hàng hoá cao.
+ Vùng sản xuất chuyên canh cà rốt, hành tỏi, dưa hấu tại Nam Sách, Bình
Giang, Kim Thành tỉnh Hải Dương.
+ Vùng chuyên canh dưa chuột tại Lý Nhân tỉnh Hà Nam
+ Vùng chuyên canh rau với một số loại rau chủ lực như: hành, tỏi, ớt, khoai tây,
dưa chuột, ngô bao tử tại Quỳnh Phụ, Thái Thuỵ - Thái Bình.
+ Vùng trồng măng tại Đan Phượng - Hà Nội.
+ Sản xuất rau xuất khẩu tại Quỳnh Lưu - Nghệ An.
Miền Nam:
+ Vùng trồng rau công nghệ cao ở thành Phố Hồ Chí Minh.
+ Vùng trồng nấm tại Vĩnh Long
+ Vùng trồng rau an toàn tỉnh Tiền Giang
+ Vùng sản xuất rau ôn đới tại Lâm Đồng.
Đánh giá về thực trạng sản xuất rau nước ta trong thời gian qua, nhiều tác giả nhận
định, sản xuất rau ở nước ta hiện nay đã có bước phát triển đáng kể về diện tích và đa
dạng về chủng loại, nhưng bên cạnh đó năng suất và sản lượng rau còn thấp, quy mô
phân tán, chất lượng không ổn định, phần lớn rau không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu tươi và
chế biến công nghiệp. Lý do chất lượng rau không đảm bảo là, thiếu cải tiến kỹ thuật,
canh tác chủ yếu thiên về năng suất chưa chú trọng đến chất lượng sản phẩm, việc quản
lý về kiểm định chất lượng còn kém cho nên rau tươi ở Việt Nam chưa bảo đảm an toàn
cho người sử dụng, dẫn đến xuất khẩu rau còn quá ít, khả năng cạnh tranh trên thị quốc
tế kém. Rau quả của nước ta tuy đa dạng và phong phú, nhưng sản xuất chưa gắn với thị
trường, chất lượng thấp, bao bì mẫu mã chưa thích hợp, thị trường rau còn đơn điệu và
9
nghèo nàn. Hiện Việt Nam có trên 40 nước là thị trường để xuất khẩu nhưng chúng ta
lại không có đủ điều kiện, mới chỉ xuất khẩu được khoảng 3% sản lượng. Rau ở nước ta
không thể cạnh tranh được với thị trường quốc tế mà ngay cả trong nước, rau tươi của ta
cũng đang bị các sản phẩm nhập khẩu lấn át.
1.3 Đặc điểm chung của nghề trồng rau
Nghề trồng rau có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Hầu hết các hạt giống rau phải trải qua thời kỳ vườn ươm
Đặc điểm nổi bật của nghề trồng rau là hầu hết các hạt giống rau đều phải trải qua
thời kỳ vườn ươm bởi vậy trong thời kỳ này chúng ta cần chăm sóc cẩn thận, để có được
cây giống tốt tạo tiền đề cho sự sinh trưởng và phát triển của cây rau sau này.
- Yêu cầu thời vụ nghiêm ngặt, chặt chẽ
Rau là loại cây trồng rất mẫn cảm với sự thay đổi của điều kiện khí hâụ thời tiết
như: nhiệt độ, ánh sáng, bởi vậy chúng yêu cầu thời vụ hết sức nghiêm ngặt. Nếu bố trí
sai thời vụ, dẫn đến giảm năng suất và chất lượng của rau, cá biệt còn không thu được
năng suất. Bởi vậy trong kỹ thuật trồng trọt cần phải bố trí thời vụ cây rau cho thích
hợp. Về nguyên tắc cần bố trí, sắp xếp thời vụ sao cho thời kỳ hình thành bộ phận sử
dụng gặp được điều kiện thuận lợi nhất.
- Rau là loại cây trồng bị nhiều sâu bệnh hại
Rau là loại cây trồng có chất dinh dưỡng phong phú, hàm lượng nước trong thân
lá non cao nên là môi trường thích hợp cho nhiều loại sâu bệnh sinh trưởng, phát triển
trên cây rau.
Chủng loại rau rất phong phú, nên sâu bệnh cũng rất đa dạng.
Sự phát sinh phát triển của sâu, bệnh phụ thuộc nhiều vào điều kiện ngoại cảnh
đặc biệt là điều kiện thời tiết khí hậu, bởi vậy phòng trừ sâu, bệnh cho rau là một nhiệm
vụ quan trọng của nghề trồng rau.
- Cây rau thích hợp với chế độ trồng xen, trồng gối
Thời gian sinh trưởng của cây rau dài ngắn khác nhau, đặc điểm thực vật học và
sinh thái học khác nhau. Vì vậy có thể bố trí nhiều loại cây trồng trên cùng một đơn vị
diện tích, trong cùng thời gian để chúng cùng sinh trưởng và phát triển. Với biện pháp
kỹ thuật trồng xen và trồng gối làm tăng năng suất trên đơn vị diện tích.
- Yêu cầu kỹ thuật cao, đầu tư nhân lực và kinh phí lớn
Rau là loại cây trồng có thời gian sinh trưởng ngắn, muốn đạt năng suất cao, chất
lượng tốt, sản xuất rau trái vụ cao cần phải thực hiện nhiều biện pháp kỹ thuật tiên tiến
và hiện đại, áp dụng công nghệ cao vào sản xuất. Bởi vậy muốn trồng rau để có hiệu
quả kinh tế yêu cầu người trồng rau phải có kỹ thuật cao.
1.4. Ph
1.4. Ph
ương hư
ương hư
ớng và nhiệm vụ ngành sản xuất rau đến năm 2020
ớng và nhiệm vụ ngành sản xuất rau đến năm 2020
Định hướng quy hoạch theo Quyết định 150/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 của
Thủ tướng Chính phủ
1.4.1. Ph
1.4.1. Ph
ương hư
ương hư
ớng
ớng
10
- Tiếp tục chương trình phát triển rau, quả, hoa cây cảnh trên cơ sở khai thác lợi
- Tiếp tục chương trình phát triển rau, quả, hoa cây cảnh trên cơ sở khai thác lợi


thế về điều kiện khí hậu, sinh thái đa dạng. Cần trồng mới theo hướng chuyên canh, sử
thế về điều kiện khí hậu, sinh thái đa dạng. Cần trồng mới theo hướng chuyên canh, sử


dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường.
dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường.
- Gắn sản xuất với thị trường, đẩy mạnh sản xuất và chế biến các sản phẩm có
- Gắn sản xuất với thị trường, đẩy mạnh sản xuất và chế biến các sản phẩm có


giá trị cao nhằm cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới.
giá trị cao nhằm cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới.
- Sản xuất rau, hoa, quả phải trên cơ sở áp dụng công nghệ cao, trước hết phải
- Sản xuất rau, hoa, quả phải trên cơ sở áp dụng công nghệ cao, trước hết phải


thực hiện quy trình sản xuất theo hướng thực hành nông nghiệp tốt (GAP), bảo đảm vệ
thực hiện quy trình sản xuất theo hướng thực hành nông nghiệp tốt (GAP), bảo đảm vệ


sinh an toàn thực phẩm, cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu ngay tại thị trường trong
sinh an toàn thực phẩm, cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu ngay tại thị trường trong


nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Trong thời kỳ 2010-2020, ngoài đáp ứng nhu cầu nội địa,
nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Trong thời kỳ 2010-2020, ngoài đáp ứng nhu cầu nội địa,


kim ngạch xuất khẩu rau hoa quả Việt Nam phấn đấu đạt 1,2 tỷ USD/năm.
kim ngạch xuất khẩu rau hoa quả Việt Nam phấn đấu đạt 1,2 tỷ USD/năm.
Các chỉ tiêu phát triển:
Về diện tích và sản lượng:
Diện tích rau đến năm 2010 đạt 700 ngàn ha và sản lượng đạt 14 triệu tấn, đến
năm 2020 diện tích gieo trồng khoảng 750 ngàn ha, trong đó rau an toàn và rau công
nghệ cao khoảng 100 ngàn ha.
Về kim ngạch xuất khẩu: phấn đấu đến năm 2010 tổng kim ngạch xuất khẩu rau
hoa quả các loại đạt 760 triệu USD/năm, đến năm 2020 đạt 1,2 tỷ USD/năm. Trong đó
riêng rau đến năm 2010 đạt 200 ngàn tấn tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 155 triệu USD
1.4.2. Nhiệm vụ
1.4.2. Nhiệm vụ
- Tăng năng suất, sản l
- Tăng năng suất, sản l
ượng, chất lư
ượng, chất lư
ợng, hiệu quả kinh tế và kim ngạch xuất khẩu
ợng, hiệu quả kinh tế và kim ngạch xuất khẩu
- Nâng cao trình độ kỹ thuật và hiểu biết thị trư
- Nâng cao trình độ kỹ thuật và hiểu biết thị trư
ờng đối với ngư
ờng đối với ngư
ời sản xuất rau
ời sản xuất rau
- Đầu t
- Đầu t
ư khoa học công nghệ và cơ sở hạ tầng cho sản xuất rau
ư khoa học công nghệ và cơ sở hạ tầng cho sản xuất rau
- Sản xuất rau quanh năm
- Sản xuất rau quanh năm
CHƯƠNG 2
11
ĐẶC TÍNH SINH THÁI HỌC CỦA CÂY RAU
2.1. Phương pháp phân loại
2.1.1. Phương pháp phân loại theo đặc điểm thực vật học
Đây là phương pháp phân loại dựa vào đặc điểm thực vật học của cây rau như rễ,
thân, lá, hoa, quả để phân loại thành bộ, họ, chi, loài, giống theo tên gọi thống nhất bằng
tiếng la tinh.
Phân loại theo phương pháp này rau được chia thành các họ như sau:
Thực vật bậc thấp
Họ nấm tán: Agricaeae
Gồm có:
Nấm rơm: Volvaria volvacea Fr. hoặc V.esculenta
Nấm mỡ: Psalliota bisporus (P.campestri Fr.)
Nấm hương: Coritellus shiitake P. Hen.
+ Họ mộc nhĩ: Auriculoria
Gồm họ mộc nhĩ: Auriculoria judae Shroter (hoặc A.fidae Shroter)
- Thực vật bậc cao:
* Lớp một lá mầm:
+ Họ hoà thảo: Gramineae
Măng tre: Phyllostachys edulis Riv.
Măng mai: Dendrrocalamus latifolius Munro
Ngô rau: Zea mays
Ngô đường: Zea mays L. var. rugosa hoặc Zea mays sacchrrata sturt
+ Họ hành tỏi: Alliaceae
Hành tây: Allium cepa L.
Hành hoa: Allium fistulosum L.
Hành ta: Syn.var.multiplicans Bailey.
Tỏi ta: Allium sativum L.
Tỏi tây: Allium porrum L.
Hẹ: Allium tuberosum
* Lớp hai lá mầm:
+ Họ thập tự: Cruciferae
Cải bắp: Brassica oleraceae L. Capitatal L.
Cải bi xen: Brassica oleraceae L. Gemmifera D.C
Cải làn: Brassica oleraceae L. Alloglabra Bailey
Cải xoăn: Brassica oleraceae L. Acephala D.C
Cải xanh: Brassica Juncea cosson
Cải củ: Raphanus sativus L.
Cải xoong: Nasturtium officinales R.Bd
Suplơ: Brassica oleraceae L.Botrytis L.
Su hào: Brassica oleraceae L. Caulorapa Pasq
12
Cải thìa: Brassica rapa L. Chinensis L.
Cải bẹ: Brassica rapa L. Pekinensis L.
+ Họ cà: Solanaceae
Cà chua: Licopersicon esculentum Mill.
Cà tím: Solanum melongena L. var. Serpentinum Bailey
Cà bát: Solanum melongena L. var. esculentum Ness
Cà pháo: Solanum melongena L. var. Depressum Bailey
Khoai tây: Solanum tuberosum L.
Ớt ngot: Capsicum annuum L.
Ớt cay: Capsicum frutescens L.
+ Họ bầu bí
Dưa chuột: Cucumis sativus L.
Dưa hấu: Citrullus vulgaris Schrad
Dưa thơm: Cucumis melo L.
Dưa gang: Cucumis melo L. var. Cocomon
Bí ngô: Cucurbita pepo L.
Bí xanh: Benincasa hispida (thunb)
Mướp: Luffa acutangula (L.) Roxb.
Su su: Sechium edule (Jacq) Swartz.
Bầu: Lagenaria vulgaris Ser.
+ Họ đậu: Leguminoceae
Đậu cô ve: Phaseolus vulgaris L
Đậu Hà lan: Pisum sativum L
Đậu đũa: Vigna umguiculata L. Walp
Đậu ván: Dolichos labla L.
Củ đậu: Pachyrhizus toberosus Spreng
Đậu rồng : Psophocarpius tetagonolabus.
+ Họ hoa tán: Unbeliferae
Cà rốt: Daucus carota L.
Cần tây: Apium graveolens L. Dulce Mill D.C
Cần ta: Apium graveolens L. Rapeceum.
Mùi ta: Petroselium crispum Mill. Manof
Mùi tầu: Erynginum odoratum.
Thìa là: Anethum graveolens L.Dulce Mill D.C
+ Họ cúc: Compositae
Rau diếp: Lactuaca sativa L.
Diếp xoăn: Cichorium endivia
Xà lách: Lactuaca sativa var. Capitata
Cải cúc: Chrysanthenum Coronanium var.Spatisum Bailey
+ Họ bìm bìm: Convulvulaceae
13
Rau muống: Ipomoea aquatica Forsk
Rau ngổ: Lepidium sativum (Forsk)
+ Họ rau muối: Chenopodiaceae
Củ cải đường: Beta vulgaris var. Saccarifera
+ Họ rau giền: Amaranthaceae
Rau giền: Amaranthus tricole L.
+ Họ mồng tơi: Basellaceae
Mồng tơi: Basella allra L.
+ Họ niễng: Trapaceae
Niễng: Trapanalans L.
Củ ấu: Trapa bicornis orbeck
+ Họ hoa môi: Labiatae
Húng: Ocinum bacilicum L.
Tía tô: Perilla frutescens var. Cripa
Kinh giới: Elsholtzia erislata (Willd)
+ Họ gừng: Zingiberaceae
Gừng: Zingiber officinale Roscoe
+ Họ nghể: Polygonaceae
Rau răm: Polygonum odoratum (Lour)
2.1.2 Phân loại theo bộ phận sử dụng
Phương pháp phân loại này dựa trên cơ sở những cây rau có bộ phận sử dụng
dùng làm thực phẩm giống nhau thì được xếp trong cùng một loại.
+ Rau ăn thân: su hào, khoai tây
+ Rau ăn lá: rau cải, cải bắp, rau giền, rau muống
+ Rau ăn hoa: thiên lý, súp lơ.
+ Rau ăn củ: cải củ, cà rốt, củ đậu
+ Rau ăn quả: cà chua, cà, ớt, đậu
Ngoài những phương pháp phân loại trên, một số tác giả còn phân loại theo khối
lượng hạt, giá trị sử dụng, giá trị dinh dưỡng và yêu cầu đối với nhiệt độ.
2.2 Ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh đối với cây rau
Yếu tố quyết định thành công trong nghề sản xuất rau đó chính là sự am hiểu một
cách sâu sắc và triệt để đến các yếu tố môi trường, yêu cầu và khả năng thích nghi của
cây rau đối với yếu tố ngoại cảnh. Yếu tố ngoại cảnh chính là các yếu tố bên ngoài tác
động vào đời sống của cây rau như: nhiệt độ, ánh sáng, ẩm độ, đất, dinh dưỡng, gió, bão
vvv Những yếu tố này gây khó khăn trong quá trình sản xuất rau và cũng là những vấn
đề vượt quá khả năng khống chế của con người. Bởi vậy trong sản xuất rau, cần phải
hiểu rõ ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh đến đời sống cây rau, để có những tác
động bằng biện pháp kỹ thuật, giúp cho cây sinh trưởng và phát triển tốt trong sự thay
đổi của điều kiện thời tiết, khí hậu diễn ra hàng ngày.
2.2.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét