Thứ Tư, 5 tháng 3, 2014

Bội chi ngân sách Nhà nước ở Việt Nam hiện nay thực trạng và giải pháp

Mục tiêu chủ yếu trong đường lối phát triển kinh tế ở nước ta là làm
cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.Và để đạt
được mục tiêu tốt đẹp ấy thì Nhà nước ta đã thực thi rất nhiều biện pháp
quan trọng.Một trong những chính sách ấy là tiến hành xây dựng rất nhiều
công trình công cộng phục vụ nhu cầu đời sống của nhân dân nh ư: điện,
đường, trường, trạm… đây là những công trình hết sức thiết thực và cần
thiết nhưng để xây dựng được thì chúng ta cần phải có một lượng vốn
lớn.Trong những năm đầu của quá trình cải cách mở cửa thì việc huy động
vốn của nước ta gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại, chính vì lẽ đó mà ta luôn
lâm vào tình trạng thu không đủ chi.Ngân sách Nhà nước bị thiếu hụt
thường xuyên, điều này về lâu về dài sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực
đến nên kinh tế đất nước.Nếu như chúng ta có những biện pháp thu hút
thêm nhiều nguồn vốn hơn nữa cả ở trong và ngoài nước, tiến hành việc
xây dựng một cách có trọng điểm, chật lượng, tiết kiệm, hiệu quả đồng thời
quản lí nguồn ngân quỹ một cách chặt chẽ, khoa học.điều đó sẽ tăng nguồn
thu cho ngân sách Nhà nước, mở rộng khả năng thu, chi cho ngân sách,
giảm thiểu một cách tối đa tình trạng thâm hụt ngân sách.
1.2.3: Mục tiêu, quan điểm chiến lược tài chính tiền tệ
Có thể nói chính sách tài chính quốc gia là một trong những chính
sách quan trọng nhất có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định, phát triển của
nền kinh tế đất nước nói chung và bội chi ngân sách Nhà nước nói riêng.
Bằng việc cải tổ cơ bản chính sách tài chính, cơ cấu thu chi ngân sách,
chính sách thuế để tiến tới kiểmsoát lạm phát, ổn định giá cả, sức mua của
đồng tiền, ổn định tình hình kinh tế xã hội.Ngoài ra chính sách tài chính
còn góp phần tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, nâng
cao đời sống vật chất của nhân dân.Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế
nước ta còn nhiều khó khăn, nguồn tài chính còn hạn hẹp do đó mà chúng
ta cần phải thận trong việc lựa chọn các hình thức tài chính thích hợp, quản
lí chặt chẽ nguồn tài chính quý giá, kiên quyết chống mọi chủ trương bảo
5
thủ trì trệ, vô chính phủ, buông trôi quản lí tài chính, gây thất thoát tiền của
đất nước.
Trên cơ sở những mục tiêu đó thì chúng ta cần phải xây dựng chính
sách tài chính dựa trên những quan điểm sau:
+Tập trung chuyển hướng tư nền tài chính”động viên, tập trung”sang
nền tài chính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính của các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế.
+Thực hiện cơ chế tài chính lành mạnh, không đơn thuần coi cân
bằng ngân sách là mục tiêu của chính sách tài chính.Một ngân sách thiếu
hụt hay dư thừa không phải là kém quan trọng so với một ngân sách cân
bằng và đều là những công cụ tài chính thích ứng với từng hoàn cảnh cụ
thể mà Nhà nước có thể sử dụng để tác động đến quy mô và phương pháp
phát triển kinh tế-xã hội (kích thích hay hạn chế tăng trưởng…)Chẳng hạn
như việc duy trì một ngân sách thiếu hụt”vừa phải”có thể là nguy cơ lạm
phát, nhưng lại tạo điều kiện tăng tích tụ cho các cơ sơ kinh tế, tăng cầu
cho người tiêu dùng trên cơ sở đó kích thích đầu tư phát triển, tạo công ăn
việc làm, mở rộng thị trường tiêu thụ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
+Để phân phối và sử dụng các nguồn tài chính có hiệu quả thì chính
sách tài chính cần xác định rõ các mục tiêu ưu tiên phát triển, đảm bảo khả
năng trả nợ, thu hút thêm vốn mới hơn nữa.
+Việc xây dựng và thực hiện chính sách tài chính cần đứng trên quan
điểm hệ thống, đặt trong mối quan hệ và đổi mới các chính sách, công cụ
khác nh ư: chính sách ngoại hối, chính sách lãi suất…nhằm tạo sức mạnh
tổng hợp, tránh tình trạng chồng chéo, triệt tiêu lẫn nhau.
+Qúa trình xây dựng và phát triển chính sách tài chính ở nước ta còn
đang trong tình trạng thiếu kiến thức đầy đủ và kinh nghiệm quản lí tài
chính còn yếu.Do đó chúng ta cần phải ra sức học tập, đúc rút kinh nghiệm
của những nước khác và cả trong quá trình tiến hành thực hiện.Hoàn thiện
6
hệ thống pháp luật về tài chính, đảm bảo cân đôi giữa thu và chi, tiến tới
một nền tài chính vững mạnh.
1.2.4: Xu hướng diễn biến tình hình kinh tế
Tình hình kinh tế cũng có những ảnh hưởng to lớn và sâu sắc đến
quá trinh thu chi ngân sách Nhà nước.Nền kinh tế nước ta trong nhưng năm
qua đã và đang có nhưng chuyển biến hết sức to lớn và tích cực.Kinh tế
tăng trưởng hàng năm thuộc vào hàng cao trên thế giới, thu ngân sách đạt
khá, chúng ta đã thu hút được khá lớn nguồn vốn trong dân chúng thông
qua việc thu thuế, phát hành trái phiếu chính phủ, công trái xây dựng tổ
quốc…đồng thời một lượng vốn đầu tư nước ngoài đang ngày tăng trong
những năm gần đây, bên cạnh đó thì ta cũng đã tranh thủ được những sự trợ
giúp quý báu của các tổ chức tài chính quốc tế thông qua viện trợ
ODA.chính những yếu tố đó đã góp một phần đáng kể trong việc cân đối
cán cân thu chi ngân sách Nhà nước, giảm thiểu tình trạng thâm hụt ngân
sách.
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra quá trình hội nhập kinh tế hết sức
nhanh chóng, quá trình toàn cầu hoá đang phát triển mạnh mẽ, khoa học
công nghệ, các kỹ thuật hiện đại không ngừng được phát minh sáng chế, sự
hợp tác cũng như sự cạnh tranh đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, điều đó đòi
hỏi chúng ta cần phải có những chính sách tranh thủ được sự giúp đỡ của
bạn bè quốc tế, thu hút thêm nữa những nguồn vốn đầu t ư, viện trợ từ nước
ngoài để phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước, đồng thời bên cạnh đó
thì chúng ta cũng cần phải phát huy nội lực của bản thân mình, không để
đối tác họ có cơ hội chèn ép, gây khó khăn cho ta.Có như vậy thì chúng ta
mới có thể làm chủ được nguồn tài chính cuả mình, phát huy hiệu quả tối
đa của hệ thống tài chính nước nhà.
1.2.5: Những nhân tố kĩ thuật, chuyên môn ảnh hưởng đến cách xác
định mức bội chi ngân sách Nhà nước
7
Những tác động của bội chi ngân sách đến nền kinh tế là rất to lớn,
nhưng để xác định được một mức bội chi chính xác không phải là một điều
dễ dàng.Sau khi tham khảo các tiêu thức quốc tế, căn cứ vào quan hệ biện
chứng giữa thâm hụt ngân sách Nhà nước vợi nợ Nhà nước và quan niệm
về ổn định tỷ suất nợ đề tài đã đưa ra một số nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp
đến cách xác định bội chi ngân sách Nhà nước.
+Ta thấy là khi lãi suất càng cao và tăng trưởng càng thấp thì làm
cho mức chênh lệch giữa lãi suất và tăng trưởng càng cao, hoặc khi tổng dư
nợ càng nhiều thì giá trị của thâm hụt ngân sách bậc một càng nhỏ dần lại
thậm chí phải có thặng dư và số thặng dư này phải cao dần mới đảm bảo
duy trì được sự ổn định của tỷ suất nợ trên GDP.
+Trong điều kiện có lạm phát thì nhìn chung lạm phát càng cao thì
gánh nặng nợ càng nhẹ.Tuy nhiên cái giá của việc sử dụng lạm phát không
phải là nhỏ.Bởi vì khi mà nền kinh tế có một mức lạm phát cao trong nhiều
năm thì sẽ dẫn đến tăng lãi suất từ đó sẽ gây ra tình trạng suy thoái kinh tế
và thất nghiệp gia tăng.Theo thời gian thì lạm phát sẽ làm tăng những
khoản nợ nước ngoài, suy giảm sức cạnh tranh quốc tế của những hàng hoá
sản xuất trong nước, gây ra sự dịch chuyển thu nhập từ người cho vay sang
người đi vay một cách không bình thường và sẽ làm giảm lòng tin của
người dân vào chính phủ.
Như vậy dù muốn hay không muốn thì những nhân tố ảnh hưởng đến
cách xác định bội chi ngân sách vẫn luôn tồn tại và gây ra những tác hại
không nhỏ, chúng ta cần phải có những biện pháp làm hạn chế một cách tối
đa những tác hại mà chúng gây ra.
1.3: Ảnh hưởng của bội chi ngân sách Nhà nước
Tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước có những ảnh hưởng hết sức
rộng lớn trên tất cả các lĩnh vực, các hoạt đông kinh tế xã hội.Thâm hụt
ngân sách Nhà nước với một mức cao và triền miên sẽ làm cho Nhà nước
phải tìm cách tăng các khoản thu, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến đời
8
sống của người dân, hơn nữa khi đó các nguồn vốn trong các ngân hàng sẽ
trở nên khan hiếm hơn điều đó sẽ dẫn đến tình trạng lãi suất tăng cao, điều
này gây ra những trở ngại trong việc vay vốn của các nhà đầu tư.Về lâu về
dài thì sẽ dẫn đến tình trạng đầu tư sẽ giảm sút nghiêm trọng, sẽ có nhiều
doanh nghiệp bị phá sản do không tìm được những khoản vay thích hợp,
sản xuất trong nước bị thu nhỏ lại từ đó sẽ toạ điều kiện thúc đẩy quá trình
nhập siêu, cán cân thương mại quốc tế mất cân bằng.Những điều này dẫn
đến tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng, thu nhập thực tế của người
dân giảm sút và ngày càng gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Mặt khác khi xảy ra tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước cũng là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lạm phát cao.Bởi lẽ khi có thâm hụt ngân
sách thì một biện pháp mà chính phủ hay dùng là phát hành tiền để bù đắp
ngân sách, mà khi tiền được tạo ra một cách quá mức như thế thì sẽ dẫn đến
lạm phát tăng cao, mà nếu như Chính phủ phát hành tráI phiếu ra công
chúng để thu hút vốn, bù đắp cho phần thiếu hụt thì trong một thời gian dài
sẽ làm cho cầu về vốn tăng, do đó lãi suất tăng và cung tiền tệ sẽ tăng.
Hơn nữa khi mà hiện nay nước ta đang trong quá trình xây dựng và
phát triển, rất cần sự ủng hộ, giúp đỡ của người dân trong nước cũng như
bạn bè thế giới.Nếu như mà chúng ta không biết cách quản lí nguồn vốn,
nền tài chính cũng như ngân sách quốc gia cho tốt thì dần dần sẽ gây mất
lòng tin của người dân cũng như của các nhà đầu tư trong và ngoài
nước.Họ đầu tư càng ngày càng ít hơn, dẫn đến nước ta đã thiếu vốn để xây
dựng đất nước nay lại càng thiếu hơn, những mục tiêu tốt đẹp mà chúng ta
đã đề ra sẽ khó mà có thể trở thành hiện thực được.
9
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1: Thực trạng bội chi ngân sách Nhà nước
2.1.1: Tình hình bội chi ngân sách Nhà nước
Trong 20 năm đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới cho đến nay
thì năm 1993 là năm ngân sách Việt Nam có mức bội chi cao nhất, lên tới
6,5%GDP.Lý do chủ yếu là Nhà nước tập trung xây dựng đường dây tải
điện 500KV bắc -nam.Những năm sau đó thì bội chi được kiềm chế ở mức
thấp dưới 5%GDP.Bình quân trong giai đoạn này bội chi ngân sách Nhà
nước đạt khoảng 4% GDP, đồng thời số thu từ thuế, phí, lệ phí dành cho
chi đầu tư phát triển ngày càng tăng, cụ thể năm 1991 là 0,2% đến năm
2000 đã là 1,8% và trong những năm gần đây là xấp xỉ 3& GDP.Tư năm
1993 Nhà nước ta đã chủ trương chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp
bội chi ngân sách Nhà nước.
Trong những năm qua thì tình hình ngân sách Nhà nước ta đã có
những bước cải tiến và đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ.Thu
ngân sách đã có sự tăng trưởng nhanh, cơ cấu thu chuyển hướng tích cực,
nền tài chính ngày càng đi vào thế tự chủ.Thu ngân sách đã tăng
từ13,1&GDP năm 1991 và càng ngày càng tăng trong những năm tiếp theo,
đến nay nguồn thu trong nước ngày cang chiếm một tỷ lệ cao trong tổng
thu ngân sách cụ thể là chiếm khoảng 97% tổng thu, điều đó không những
đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên mà còn giành ra một khoản ngày
càng tăng giành cho đầu tư phát triển và chi trả nợ.Thuế đã thực sự trở
thành nguồn thu chủ yếu trong nước chiếm khoảng 90% tổng thu ngân sách
Nhà nước.Về chi ngân sách đã từng bước được cơ cấu theo hướng xoá bỏ
bao cấp, thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tăng chi đầu tư xã
hội cơ sở hạ tầng phát triển nguồn nhân lực xoá đói giảm nghèo.Chú trọng
chi trả nợ theo đúng cam kết, năng cao năng lực đảm bảo chi ngân sách
ngày càng tiết kiệm và có hiệu quả hơn.Điều hành ngân sách Nhà nước
10
từng bước chủ động và linh hoạt hơn, dự trữ dự phòng của ngân sách đã
góp phần tích cực vào việc ổn định quá trình sản xuất kinh doanh và đời
sống khi nền kinh tế có những biến động bất thường như khủng hoảng tài
chính tiền tệ, thiên tai lũ lụt…Chính vì lẽ đó mà tình hình bội chi ngân sách
trong những năm qua đã có những cải thiện đáng kể góp phần quan trọng
vào việc ổn định và phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được đó thì chúng ta
cũng đã gặp phải không ít những sai lầm, còn có những hạn chế cần phải
rút kinh nghiệm và khắc phục.Tiềm lực tài chính tuy đã được tăng lên đáng
kể nhưng còn nhỏ bé và vẫn không theo kịp nhu cầu tăng chi để giải quyết
những nhu cầu bức xúc của nền kinh tế.Nền tảng của nguồn thu ngân sách
chua thực sự vững chắc, cơ cấu thu đã được đổi mới nhưng chưa thực sự
toàn diện.Trong khi nhu cầu về xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển giáo dục,
khoa học công nghệ, xoá đói giảm nghèo, thực hiện quá trình công nghiệp
hoá-hiện đại hoá đất nước đang là áp lực lớn cho ngân sách Nhà nước.
Thêm vào đó thì việc phân bổ sử dụng ngân sách Nhà nước còn
nhiều bất cập, hiệu quả đã được nâng lên nhưng chưa cao, vẫn còn tình
trạng thất thoát trong sử dụng nguồn ngân sách.Chi cho đầu tư xây dựng cơ
bản còn phân tán, công tác quy hoạch, chuẩn bị đâu tư, lập dự án chưa
được chú trọng nên chất lượng công trình không cao.Chế độ tiêu chuẩn,
định mức chi ngân sách vừa thiếu vừa lạc hậu so với thực tế gây khó khăn
cho việc cấp kinh phí, kiểm tra, kiểm soát trong chi ngân sách.Trong chi
thường xuyên của chi ngân sách Nhà nước thì chi cho lương còn chiếm tỷ
trọng lớn(chiếm 50% tổng chi thường xuyên) điều đó là do việc tinh giảm
biên chế trong khu vựa hành chính sự nghiệp hiệu quả còn thấp.
Việc thực hành chống lãng phí, tiết kiệm chưa được các cấp quan
tâm đầy đủ, vẫn còn có nhiều hoạt động mang tính phô trương hình thức,
hội họp, chiêu đãi không cần thiết vẫn diễn ra ở nhiều nơi.Công tác kiểm
tra còn mang tính hình thức, chưa thực sự phát huy hiệu quả.Chính điều
11
này đã góp phần làm cho ngân sách không đủ để chi, tình trạng bội chi
ngân sách vẫn còn diễn ra ỏ nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực trong đời
sông kinh tế-xã hội.
2.1.2: Nguyên nhân chủ yếu của bội chi ngân sách Nhà nước
Trong thời gian qua thì tình hình bội chi ngân sách ở nước ta có
nhiều diễn biến phức tạp, điều đó do nhiều nguyên nhân tác động.
-Có những thời kì mà nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, do đó mà dẫn đến tình trạng
nền kinh tế bị giảm sút trong các năm 1997-2000.Để kích cầu nền kinh tế
thì Nhà nước ta đã sử dụng nguồn ngân sách quốc gia chi cho đầu tư phát
triển.
+Chi ngân sách vẫn đảm bảo chi cho đầu tư phát triển ổn định ở mức
6,4% GDP, đảm bảo các nghĩa vụ trả nợ đến hạn.Sau cuộc khủng hoảng thì
nước ta lâm vào tình trạng giảm phát kéo dài có năm xuống 0,1% năm 1999,
thậm chí la -0,6% năm 2000, tình hình đầu tư trong nước gặp nhiều khó khăn,
sản xuất thì lâm vào khủng hoảng, có rất nhiều doanh nghiệp đã bị phá sản,
tổng sản phẩm xã hội bị giảm sút, kinh tế giảm sút…Chính vì lẽ đó mà Chính
phủ không thế đứng ngoài cuộc được, để tháo gỡ bế tắc thì Nhà nước ta đã
chủ động tăng chi, kích cầu hàng hoá trong nước lên.Việc làm đó là rất cần
thiết để đẩy nhanh tốc độ đầu tư, chặn đứng tốc độ giảm phát kéo dài, từ đó
thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế.
+Hơn nữa Nhà nước cũng đảm bảo những nhiệm vụ quan trọng của
chi thường xuyên như: chi cho sự nghiệp giáo dục, y tế, khoa học công
nghệ.môi trường…đây là những khoản chi rất quan trong và cần thiết đối
với nền kinh tế, nhưng chúng cũng chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng chi
của ngân sách Nhà nước, nhất là trong hoàn cảnh khó khăn của nước ta lúc
đó thì việc chi tiêu này cũng gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đối với
việc thâm hụt ngân sách Nhà nước.
12
-Mặt khác tỷ lệ bội chi trong những năm nay tăng cao còn do tác
động của nguyên nhân tỷ lệ động viên ngân sách Nhà nước giảm do tăng
trưởng giảm sút.Do những tác động xấu của cuộc khủng hoảng nên làm
cho tốc độ phát triển kinh tế nước ta giảm xuống từ mức cao 9,5%năm
1995 xuống còn 4,8% năm 1999.Chính vì vậy mà ngân sách Nhà nước phaỉ
được sử dụng nhiều hơn.
-Một nguyên nhân cũng rất quan trọng nữa là do đất nước ta đang là
một nước đang phát triển, nền kinh té còn gặp nhiều khó khăn, muốn xây
dựng và phát triển đất nước theo kịp các nước trên thế giới thì chúng ta
phải có một lượng vốn rất lớn để xây dựng cơ sở vật chất, đào tạo nguồn
nhân lực cũng như mở rộng các ngành nghề trong nước.Chính vì vậy mà
chi của ngân sách luôn ở mức cao, trong khi đó thì nguồn thu có hạn và
chưa thực sự đủ mạnh đáp ứng nhu cầu chi tiêu của đất nước cho nên ngân
sách Nhà nước luôn ở một mức bội chi nào đó.
2.2: Những ưu điểm và hạn chế trong quản lí bội chi ngân sách
Nhà nước
2.2.1: Ưu điểm và kết qu ả
Quản lí bội chi ngân sách trong thơi gian qua đã đáp ứng được nhu
cầu điều hành vĩ mô, góp phần ổn định và lành mạnh hoá nền tài chính
quốc gia.Mức độ bội chi ngân sách luôn được kiềm chế ở mức độ hợp lí
trên tổng GDP đã góp phần quan trọng trong việc giúp Nhà nước kiểm soát
tốt hơn công việc thu chi của mình.Như chúng ta đã biết một trong những
nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước là điều hành nền kinh tế làm sao cho
thật sự hiệu qu ả, kiểm soát mức độ lạm phát ở mức độ cho phép, tạo thêm
nhiều công ăn việc làm hơn nữa cho người lao động, đẩy nhanh tốc độ phát
triển của nền kinh tế, cải thiện từng bước đời sống của người dân…và để
đạt được những mục tiêu quan trọng ấy thì điều kiện quan trọng đầu tiên là
phải có một nền tài chính vững chắc, một nguồn ngân sách ổn định.Muốn
vậy thì Nhà nước phải quản lí thu chi làm sao cho cân đối và trong thời
13
gian qua thì Nhà nước ta đã có những chính sách khá hiệu quả trong việc
quản lí ngân sách của mình, giảm thiểu một cách đáng kể tình trạng bội chi
ngân sách Nhà nước.Bằng việc tiến hành mở rộng thêm nhiều nguồn thu
hơn nữa, thu hút được nhiều hơn những nguồn vốn đầu tư trong nước và cả
nước ngoài, kích thích hoạt động sản xuất ngày càng được mở rộng hơn
nữa.Trong lĩnh vực chi thi Nhà nước đã đầu tư có trọng điểm hơn, kiểm tra
giám sát hoạt động chi thường xuyên của mình, giảm thiểu một cách tối đa
sự thất thoát lãng phí trong xây dựng cơ bản, tiến hành đầu tư có trọng
điểm, tránh tình trạng dàn trải không có mục đích rõ ràng…tất cả những
biện pháp ấy đã góp phần tích cực trong việc giúp Nhà nước quản lí nền
kinh tế một cách có hiệu quả hơn nữa, đã đem lại một số những thành tựu
đáng ghi nhận
Những nguyên tắc cơ bản về cân đối ngân sách Nhà nước kể cả ngân
sách địa phương và những quan điểm cụ thể về quản lí bội chi ngân sách
Nhà nước được cụ thể hoá trong luật ngân sách đã góp phần quan trọng
trong điều hành thực tế, góp phần cơ cấu lại ngân sách Nhà nước.Các
khoản chi tiêu thường xuyên đã được điều chỉnh một cách thích hợp, tiết
kiệm một cách tối đa nhưng vẫn đảm bảo được hiệu quả tốt nhất để rồi từ
đó tạo tích luỹ nội bộ ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển, giảI quyết
một cách hài hoà mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng.Ngân sách Nhà
nước đã từng bước cơ cấu lại theo hướng giảm thiểu tối đa tình trạng bao
cấp tràn lan, Nhà nước chỉ quản lí nền kinh tế ở tầm vĩ mô chứ không can
thiệp, trợ cấp cho các doanh nghiệp như trước đây nữa, để cho họ tự chủ
hơn trong công việc làm ăn kinh doanh của mình, đồng thời có chính sách
ưu tiên phát triển một số lĩnh vực mà Nhà nước cần can thiệp như giáo dục
đào tạo, y tế toàn dân, phát triển khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường….
Một điều cũng rất quan trọng nữa là việc quản lí tốt bội chi ngân
sách trong những năm qua cũng đã góp phần tích cực đẩy lùi lạm phát.Bởi
vì khi tình trạng bội chi được giảm xuống một cách đáng kể thì Nhà nước
sẽ không phải bù đắp các khoản thâm hụt bằng cách đi vay trong dân
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét