Thứ Sáu, 7 tháng 3, 2014

Đánh giá tình hình ô nhiễm kim loại nặng trong đất nông nghiệp và nước ở xã đại đồng huyện văn lâm tỉnh hưng yên

- Mực nớc biển có thể dâng lên cao từ 25 - 140 cm, do sự tan băng và
sẽ nhấn chìm một vùng ven biển rộng lớn, làm mất đi nhiều vùng sản xuất
nông nghiệp, dẫn đến nghèo đói, đặc biệt ở các nớc đang phát triển
[16].
- Thời tiết thay đổi dẫn đến gia tăng tần xuất thiên tai nh gió, bão, hỏa
hoạn và lũ lụt. Điều này không chỉ ảnh hởng đến sự sống của loài ngời một
cách trực tiếp và gây ra những thiệt hại về kinh tế mà còn gây ra nhiều vấn đề
môi trờng nghiêm trọng khác. Các trận hỏa hoạn tự nhiên không kiểm soát
đợc vào các năm từ 1996 - 1998 đã thiêu hủy nhiều khu rừng ở Braxin,
Canada, khu tự trị Nội Mông ở Đông Bắc Trung Quốc, Inđônêxia, Italia,
Mêhicô, Liên bang Nga và Mỹ. Những tác động của các vụ cháy rừng có thể
rất nghiêm trọng. Chi phí ớc tính do nạn cháy rừng đối với ngời dân Đông
Nam á là 1,4 tỷ USD, các vụ cháy rừng còn đe dọa nghiêm trọng tới đa dạng
sinh học
[16].
2.1.1.2. Sự suy giảm tầng ôzôn (O
3
)
Vấn đề gìn giữ tầng ôzôn có vai trò sống còn đối với nhân loại. Tầng
ôzôn có vai trò bảo vệ, chặn đứng các tia cực tím có ảnh hởng trực tiếp tới
đời sống của con ngời và các loài sinh vật trên trái đất. Bức xạ cực tím có
nhiều tác động, hầu hết mang tính chất phá hủy đối với con ngời, động vật và
thực vật cũng nh các loại vật liệu khác, khi tầng ôzôn tiếp tục bị suy thoái,
các tác động này càng trở nên tồi tệ. Ví dụ, mức cạn kiệt tầng ôzôn là 10% thì
mức bức xạ tia cực tím ở các bớc sóng gây phá hủy tăng 20%. Bức xạ tia cực
tím có thể gây hỏng mắt, làm đục thủy tinh thể và phá hoại võng mạc, gây ung
th da, làm tăng các bệnh về đờng hô hấp. Đồng thời bức xạ tia cực tím tăng
lên đợc coi là nguyên nhân làm suy yếu các hệ miễn dịch của con ngời và
động vật, đe dọa tới đời sống của động và thực vật nổi trong môi trờng nớc
nhờ quá trình chuyển hóa qua quang hợp để tạo ra thức ăn trong môi trờng
thủy sinh
[16].


5
2.1.1.3. Tài nguyên bị suy thoái
Rừng, đất rừng và đồng cỏ hiện vẫn đang bị suy thoái hoặc bị triệt phá
mạnh mẽ, đất hoang bị biến thành sa mạc. Sa mạc Sahara có diện tích rộng 8
triệu km
2
, mỗi năm tăng thêm 5 - 7 km
2
. Một bằng chứng mới cho thấy, sự
biến đổi khí hậu cũng là nguyên nhân gây thêm tình trạng xói mòn đất ở nhiều
khu vực. Gần đây, 250 nhà Thổ nhỡng học đợc Trung tâm Thông tin và T
liệu Quốc tế Hà Lan tham khảo lấy ý kiến đã cho rằng, khoảng 305 triệu ha
đất màu mỡ (gần bằng diện tích của Tây Âu) đã bị suy thoái do bàn tay của
con ngời, làm mất đi tính năng sản xuất nông nghiệp. Khoảng 910 triệu ha
đất tốt (tơng đơng với diện tích của Ôxtrâylia) sẽ bị suy thoái ở mức trung
bình, giảm tính năng sản xuất và nếu không có biện pháp cải tạo thì quỹ đất
này sẽ bị suy thoái ở mức độ mạnh trong tơng lai gần. Theo Tổ chức Lơng
thực Thực phẩm thế giới (FAO) thì trong vòng 20 năm tới, hơn 140 triệu ha
đất (tơng đơng với diện tích của Alaska) sẽ bị mất đi giá trị của trồng trọt và
chăn nuôi. Đất đai ở hơn 100 nớc đang chuyển chậm sang dạng hoang mạc,
nghĩa là có khoảng 900 triệu ngời đang bị đe dọa. Trên phạm vi toàn cầu,
khoảng 25 tỷ tấn đất đang bị cuốn trôi hàng năm vào các sông ngòi và biển
cả
[16].
- Sự phá hủy rừng vẫn đang diễn ra với mức độ cao, trên thế giới diện
tích rừng có khoảng 40 triệu km
2
, song cho đến nay diện tích này đã bị mất đi
một nửa, trong số đó, rừng ôn đới chiếm khoảng 1/3 và diện tích rừng nhiệt
đới 2/3. Sự phá hủy rừng xảy ra mạnh, đặc biệt ở những nớc đang phát triển.
Chủ yếu do nhu cầu khai thác gỗ củi, nhu cầu lấy đất làm nông nghiệp và cho
nhiều mục đích khác
[16].
ở các nớc phát triển, diện tích rừng tăng 9 triệu ha, con số này còn quá
nhỏ so với diện tích rừng đã bị mất đi. Chất lợng của những khu rừng còn lại
đang bị đe doạ bởi nhiều sức ép do tình trạng gia tăng dân số, ma axit, nhu
cầu khai thác gỗ củi và cháy rừng. Nơi c trú của các loài sinh vật bị thu hẹp,


6
bị tàn phá, đe doạ tính đa dạng sinh học ở các mức độ về gien, các giống loài
và các hệ sinh thái
[16].
- Với tổng lợng nớc là 1386.10
6
km
3
, bao phủ gần 3/4 diện tích bề
mặt trái đất, nhng loài ngời vẫn "khát" giữa đại dơng mênh mông, bởi vì
với tổng lợng nớc đó thì nớc ngọt chỉ chiếm 2,5% tổng lợng nớc, mà
hầu hết tồn tại ở dạng đóng băng và tập trung ở hai cực, còn lợng nớc ngọt
mà con ngời có thể tiếp cận để sử dụng trực tiếp thì lại rất ít ỏi (chỉ chiếm
0,26%). Sự gia tăng dân số nhanh cùng với quá trình công nghiệp hoá, đô thị
hoá, thâm canh nông nghiệp và các thói quen tiêu thụ nớc quá mức đang gây
ra sự khủng hoảng nớc trên phạm vi toàn cầu. Gần 20% dân số thế giới
không đợc dùng nớc sạch và 50% thiếu các hệ thống vệ sinh an toàn. Sự suy
giảm nớc ngọt ngày càng lan rộng hơn và gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng,
đó là nạn thiếu nớc ở nhiều nơi và đối với các khu vực ven biển đó là sự xâm
nhập mặn. Ô nhiễm nớc uống là phổ biến ở các siêu đô thị, ô nhiễm nitrat
(NO
3
-
) và sự tăng khối lợng các KLN gây tác động đến chất lợng nớc hầu
nh ở khắp mọi nơi. Nguồn cung cấp nớc sạch trên thế giới không thể tăng
lên đợc nữa, ngày càng có nhiều ngời phụ thuộc vào nguồn cung cấp cố
định này và ngày càng có nhiều ngời chịu ảnh hởng của ô nhiễm hơn
[16].
2.1.1.4. Ô nhiễm môi trờng đang xảy ra ở quy mô rộng
Sự phát triển đô thị, khu công nghiệp, du lịch và việc đổ bỏ các loại chất
thải vào đất, biển, các thuỷ vực đã gây ô nhiễm môi trờng ở quy mô ngày
càng rộng, đặc biệt là các khu đô thị. Nhiều vấn đề môi trờng tơng tác với
nhau ở các khu vực nhỏ, mật độ dân số cao. Ô nhiễm không khí, rác thải, chất
thải nguy hại, ô nhiễm tiếng ồn và nớc đang biến những khu vực này thành
các điểm nóng về môi trờng. Khoảng 30 - 60% dân số đô thị ở các nớc có
thu nhập thấp vẫn còn thiếu nhà ở và các điều kiện vệ sinh. Lợng nớc ngọt
đang khan hiếm trên hành tinh cũng bị chính con ngời làm tổn thơng, một
số nguồn nớc bị nhiễm bẩn nặng đến mức không còn khả năng hoàn nguyên.


7
Hiện nay, đại dơng đang bị biến thành nơi chứa rác khổng lồ của con
ngời, nơi chứa đựng đủ loại chất thải của nền văn minh kỹ thuật, kể cả chất
thải hạt nhân. Việc đổ các chất thải xuống biển đang làm ô nhiễm các khu vực
ven biển trên toàn thế giới, gây huỷ hoại các hệ sinh thái nh đất ngập nớc,
rừng ngập mặn và các dải san hô.
Trên thế giới, nhiều vùng đất đã đợc xác định là bị ô nhiễm. Ví dụ, ở
Anh đã chính thức xác nhận 300 vùng với diện tích 10.000 ha bị ô nhiễm, tuy
nhiên trên thực tế có tới 50.000 - 100.000 vùng với diện tích khoảng 100.000
ha bị ô nhiễm. Còn ở Mỹ, có khoảng 25.000 vùng, ở Hà Lan là 6.000 vùng đất
bị ô nhiễm cần phải xử lý
[16].
2.1.1.5. Sự gia tăng dân số
Con ngời là chủ của trái đất, là động lực chính làm tăng thêm giá trị
của các điều kiện kinh tế - xã hội và chất lợng cuộc sống. Tuy nhiên, xung
lợng gia tăng dân số hiện nay ở một số nớc đi đôi với đói nghèo, suy thoái
môi trờng và tình hình kinh tế bất lợi đã gây ra xu hớng làm mất cân bằng
nghiêm trọng giữa dân số và môi trờng.
Đầu thế kỷ XIX, dân số thế giới mới có 1 tỷ ngời nhng đến năm 1999
đã tăng lên 6 tỷ ngời, trong đó trên 1 tỷ ngời trong độ tuổi từ 14 - 24 tuổi.
Mỗi năm dân số thế giới tăng thêm khoảng 78 triệu ngời. Theo dự tính đến
năm 2015, dân số thế giới sẽ ở mức 6,9 - 7,4 tỷ ngời và đến năm 2025 dân số
sẽ là 8 tỷ ngời. 95% dân số tăng thêm nằm ở các nớc đang phát triển, do đó
các nớc này sẽ phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng cả về kinh tế, xã
hội, đặc biệt là môi trờng sinh thái. Việc giải quyết những hậu quả do dân số
tăng của những nớc này có lẽ còn khó khăn gấp nhiều lần những xung đột về
chính trị trên thế giới[16].
2.1.1.6. Sự suy giảm đa dạng sinh học
Các loài động thực vật qua quá trình tiến hoá hàng trăm triệu năm đã và
đang góp phần quan trọng trong việc duy trì sự cân bằng môi trờng sống trên


8
trái đất, ổn định khí hậu, làm sạch các nguồn nớc, hạn chế xói mòn đất, làm
tăng độ phì nhiêu đất. Sự đa dạng của tự nhiên cũng là nguồn vật liệu quý giá
cho các ngành công nghiệp, dợc phẩm, du lịch, là nguồn thực phẩm lâu dài
của con ngời và là nguồn gien phong phú để tạo ra các giống loài mới. Tuy
nhiên, nhân loại đang phải đối mặt với một thời kỳ tuyệt chủng lớn nhất của
các loài động và thực vật. Thảm họa này tiến triển nhanh nhất và có hậu quả
rất nghiêm trọng. Theo tính toán, trên thế giới có 492 chủng quần thực vật có
tính chất di truyền độc đáo đang bị đe doạ tuyệt chủng. Sự đe doạ không chỉ
riêng đối với động thực vật hoang dại mà trong nhiều thập kỷ gần đây với
cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp, công nghiệp hoá đã làm biến mất
nhiều giống loài địa phơng quý hiếm, 1.500 giống lúa địa phơng đã bị tuyệt
chủng trong 20 năm qua ở Inđônêxia. Đối với vật nuôi trên toàn cầu, đã có
474 giống vật nuôi đợc coi là quý hiếm và tổng cộng đã có 617 giống vật
nuôi đã tuyệt chủng
[16].
Ngoài ra còn xuất hiện nhiều vấn đề môi trờng khác nữa nh sức
khoẻ và định c, ô nhiễm biển, quan hệ kinh tế quốc tế, an ninh và môi
trờng
2.1.2. Thực trạng môi trờng Việt Nam
Cũng nh nhiều nớc đang phát triển khác trên thế giới có thu nhập
thấp với dân số đông, Việt Nam đang đối đầu với những vấn đề gay cấn do tài
nguyên thiên nhiên bị xuống cấp và sự sa sút của chất lợng môi trờng. Sự
chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang một nền kinh tế
hớng theo thị trờng đã đẩy nhanh sự tăng trởng kinh tế. Việc giải phóng
sức sản xuất nông nghiệp, công nghiệp cũng nh việc phát triển nền kinh tế
dịch vụ, việc mở cửa cho đầu t nớc ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu và tham gia
vào nền thơng mại khu vực và quốc tế, đã tạo nên thành tựu lớn về kinh tế và
xã hội cho nhân dân Việt Nam. Nền kinh tế tăng trởng tơng đối nhanh,
nhng đồng thời n
ớc ta cũng đang phải đối đầu với một số vấn đề gay cấn


9
trong khi thực hiện mục tiêu phát triển của mình là vấn đề môi trờng. Các
gay cấn đó về môi trờng đặc biệt khó giải quyết, vì sự tăng trởng kinh tế và
việc bảo vệ môi trờng cho ngày nay và cho thế hệ mai sau, thờng mâu thuẫn
trực tiếp với nhau
[1].
Hiện nay có nhiều vấn đề về môi trờng mà Việt Nam đang phải đối
đầu, trong đó những vấn đề nghiêm trọng nhất là phá rừng, sự khai thác quá
mức tài nguyên sinh học, tài nguyên khoáng sản, sự xuống cấp của tài nguyên
đất, việc bảo tồn nớc ngọt kém hiệu quả, nạn thiếu nớc ngọt và nạn ô nhiễm
gia tăng, đó là cha kể đến tác động lâu dài của chiến tranh đến môi trờng
Những vấn đề rắc rối nói trên đang ngày càng trầm trọng hơn do dân số tăng
nhanh và nạn đói nghèo còn cha giải quyết đợc một cách cơ bản. Tuy nhiên
trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi chỉ đề cập đến thực trạng, nghiên cứu của
các nhà khoa học và nguyên nhân của việc ô nhiễm môi trờng đất và môi
trờng nớc ở Việt Nam.
2.1.2.1. Ô nhiễm môi trờng đất
Ô nhiễm đất đợc xem là tất cả các hiện tợng làm nhiễm bẩn môi
trờng đất bởi các chất gây ô nhiễm. Đất bị ô nhiễm có thể phân loại theo
nguồn gốc phát sinh, hoặc các tác nhân gây ô nhiễm: do chất thải sinh hoạt,
do hoạt động công nghiệp, do hoạt động nông nghiệp, do chất độc hoá học
Ô nhiễm đất sẽ làm đảo lộn cân bằng sinh thái, các chất dinh dỡng và phá
huỷ cấu trúc của đất, dới đây là một số nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm
đất:
Ô nhiễm do tác nhân sinh học
Những tác nhân sinh học có thể làm ô nhiễm đất, gây ra bệnh ở ngời và
động vật nh trực khuẩn lỵ, thơng hàn hoặc amip, ký sinh trùng (giun, sán ).
Sự ô nhiễm này phát sinh là do những phơng pháp đổ bỏ chất thải hoặc sử
dụng phân bắc t
ơi, bùn ao tơi, bùn kênh dẫn chất thải sinh hoạt bón trực tiếp
cho đất.


10
Hiện nay, ở các vùng nông thôn miền Bắc, tập quán sử dụng phân bắc
và phân chuồng tơi trong canh tác vẫn còn phổ biến. Chỉ tính riêng trong nội
thành Hà Nội, hàng năm lợng phân bắc thải ra khoảng 550.000 tấn, trong khi
đó, công ty Vệ sinh môi trờng chỉ đảm bảo thu đợc 1/3, số còn lại đợc
nông dân chuyên chở về bón cho cây trồng gây mất vệ sinh và gây ô nhiễm
đất. ở các vùng nông thôn phía Nam, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL), phân tơi ở một số nơi còn đợc coi là nguồn thức ăn cho

[16].
Tại vùng trồng rau Mai Dịch (Từ Liêm, Hà Nội) mật độ trứng giun đũa
là 27,4 trứng/100g đất; trứng giun tóc là 3,2 trứng/100g đất
[16]. Theo điều tra
của Viện Thổ nhỡng - Nông hoá (1993 - 1994), tại một số vùng trồng rau,
nông dân chủ yếu sử dụng phân bắc tơi với liều lợng khoảng từ 7 - 12
tấn/ha. Do vậy, trong 1 lít nớc mơng máng khu trồng rau có tới 360 E. coli,
ở nớc giếng công cộng là 20, còn trong đất lên tới 2.10
5
/100g đất. Chính vì
thế, khi điều tra sức khoẻ ngời trồng rau thờng xuyên sử dụng phân bắc tơi
cho thấy có tới 60% số ngời có tiếp xúc với phân bắc từ 5 - 20 năm; 26,7%
tiếp xúc trên 20 năm làm cho 53,3% số ngời đợc điều tra có triệu trứng
thiếu máu (nam 37,5%; nữ 62,5%); 60% số ngời bị bệnh ngoài da (nam:
27,8%; nữ: 72,2%). Nh vậy ở Việt Nam, tình hình đất bị nhiễm trứng giun ký
sinh, nhiễm vi sinh vật vẫn nổi lên ở từng nơi, từng lúc, nhất là ở vùng nông
thôn và vùng trồng rau hàng hoá
[16].
Ô nhiễm đất do chất thải công nghiệp
Các chất thải công nghiệp có thể ở dạng lỏng, khí hoặc dạng rắn, có
thể là chất vô cơ, hữu cơ, xà phòng, thuốc nhuộm, kiềm hoặc axit Đặc
biệt nguy hiểm là các kim loại nặng nh chì, thuỷ ngân, asen
Ô nhiễm đất do nớc thải sinh hoạt, nớc thải công nghiệp, rác thải,
bụi, khói ở một số vùng sản xuất nông nghiệp ven đô Hà Nội, Nha Trang,
thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần Thơ, khu công nghiệp Việt Trì đã


11
đợc ghi nhận là đang trở thành vấn đề môi trờng cấp bách và đang gia tăng
theo tốc độ đô thị hoá và phát triển công nghiệp. Hiện trạng ô nhiễm đất xung
quanh các lò gạch, ngói, gốm sứ, nhà máy luyện kim mà theo kết quả nghiên
cứu bớc đầu của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trờng (KHCN&MT) (1995)
trớc đây đã cho thấy các chất độc hại nh cacbonmonooxyt, asbestos, berillum,
thuỷ ngân, asen, KLN tích luỹ trong đất theo hớng ngày càng tăng, xâm
nhập vào nông sản, thực phẩm gây ô nhiễm môi trờng.
Đất càng ở gần trung tâm công nghiệp, nhà máy thì khả năng bị ô
nhiễm càng lớn. Khi đất bị ô nhiễm, thực vật, nớc uống cho vật nuôi bị
nhiễm độc rồi gây ảnh hởng đến con ngời. Nhiều loài sinh vật trong đất,
trong nớc bị tiêu diệt nh: giun đất, côn trùng có ích, vi sinh vật đất
[2].
Đất của một số vùng kế cận một số khu công nghiệp ở Hà Nội, Thái
Nguyên, khu hoá chất Đức Giang, khu công nghiệp Văn Điển, Việt Trì, Biên
Hoà đã có hiện tợng bị ô nhiễm do các loại chất thải. Ví dụ, đất ở quanh khu
vực nhà máy pin Văn Điển, hoá chất Đức Giang, hàm lợng sunphat tích luỹ
trong đất một phần có nguồn gốc từ khói nhà máy, bụi, khói xăng của các
phơng tiện giao thông cơ giới
[2].
Ô nhiễm đất do phân hoá học
Do áp lực của sự gia tăng dân số, nguồn tài nguyên đất bị thu hẹp, cộng
với xu thế giảm độ phì của đất đã dẫn đến việc tăng số lợng sử dụng phân bón
để đạt đợc sản lợng nông nghiệp lớn hơn. Việt Nam là một nớc đang phát
triển, có bình quân thu nhập trên đầu ngời thấp, nông nghiệp chiếm một vai trò
quan trọng với 75% lao động và 80% dân số sống về nông nghiệp do vậy việc
sử dụng phân bón trong nông nghiệp, đặc biệt phân hoá học ngày một tăng lên.
Lợng phân hoá học ở Việt Nam đợc sử dụng ở mức trung bình là 62,7
kg/ha vào năm 1985 và 73,5 kg/ha vào năm 1990. Hiện nay mức sử dụng phân
hoá học ở Việt Nam cha cao, tuy nhiên ở một số vùng sản xuất rau thâm
canh, phân hoá học đã bị lạm dụng quá mức, gây mất cân đối dinh dỡng đối


12
với cây trồng, làm giảm chất lợng nông phẩm và làm suy thoái đất vùng sản
xuất rau nh ở Hà Nội, Đà Lạt
[12].
Trong việc sử dụng phân hoá học, nếu biết dùng đúng loại phân, đúng
cách, đúng đất thì sẽ cho hiệu quả cao, nhng thực ra phân hoá học thiếu tác
dụng tổng hợp toàn diện và bền vững nh phân hữu cơ. Bởi vì phân hoá học
chỉ chứa một vài chất dinh dỡng cần thiết chiếm 5 - 10% hoặc nhiều lắm là
20 - 30% lợng phân đem bón. Phần còn lại là những chất không cần cho cây
trồng mà có khi còn gây độc cho cây hoặc làm chai cứng đất nhất là khi dùng
quá liều. Ví dụ, phân lân là loại phân hoá học khó hoà tan trong nớc, chỉ có
khoảng 10% lân bón vào đất là có thể hoà tan đợc cho cây hút. Hơn 90%
lợng phân bón vào đất không hoà tan trong nớc đợc tích trữ lại trong đất là
nguồn gây ô nhiễm môi trờng đất. Chúng làm thay đổi thành phần và tính
chất đất, nếu sử dụng không hợp lý sẽ làm chai cứng đất, làm chua đất, làm
thay đổi cân bằng dinh dỡng giữa đất với cây trồng. Mặt khác khi đất đã bão
hoà các chất, chúng sẽ xâm nhập vào nguồn nớc, vào khí quyển gây ô
nhiễm
[12].
Các loại phân đạm và phân kali thì ngợc lại, dễ hoà tan, có thể
hoà tan trong nớc để tới cho cây, nhng cũng chỉ có một phần đạm và
kali đợc cây sử dụng, phần thừa của phân mà cây không cần dùng nh
các gốc sunphat sẽ bị giữ lại trong đất cũng làm cho đất chua thêm hoặc
bị trôi thấm vào đất, vào nớc, làm ô nhiễm nguồn đất, nguồn nớc gây
độc hại cho sản xuất và sinh hoạt.
Ô nhiễm đất do hoá chất bảo vệ thực vật
Trong cả nớc, bình quân từ năm 1976 - 1980 đã sử dụng hoá chất bảo
vệ thực vật 5.100 tấn/năm, từ 1981 - 1985 bình quân 3.920 tấn/năm, ớc tính
hiện nay khoảng 50.000 tấn/năm. Mức độ sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật
thay đổi theo vùng cây trồng (lúa, rau, cây công nghiệp). Vùng trồng rau sử
dụng HCBVTV với tần suất lớn gấp nhiều lần so với vùng trồng lúa. Ví dụ, ở


13
vùng trồng rau Mai Dịch và Tây Tựu (Từ Liêm, Hà Nội), Đà Lạt (Lâm
Đồng) trong mỗi vụ rau trung bình phun từ 28 - 30 lần, ở vùng trồng lúa của
đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) mỗi vụ lúa phun thuốc từ 1 - 3 lần, ở vùng
trồng lúa ĐBSCL mỗi vụ phun thuốc từ 2 - 5 lần
[12].
Đa số các HCBVTV phân huỷ trong nớc rất chậm (từ 6 - 24 tháng), tạo
ra d lợng đáng kể ở trong đất. Trung bình có khoảng 50% lợng thuốc trừ
sâu đợc phun đã rớt xuống đất và lôi cuốn vào chu trình đất - cây - động vật -
ngời. Theo Lichtenstein (1961) 1 năm sau khi phun, DDT còn 80%, Lindan
còn 60%, Aldrin còn 20%; sau 3 năm DDT còn 50%, Aldrin còn 5%. Clo hữu
cơ tồn tại trong đất từ 4 - 15 năm, cacbonat từ 1 - 2 năm
[12].
Việc tăng cờng sử dụng các chất hoá học có tác động mạnh đến môi
trờng đất, gây hại đến nhiều cho hệ sinh vật sống trong đất, các loài động
thực vật sống trên đất làm nhiễu loạn cân bằng sinh học. Đất thiếu sinh vật
sống trở nên môi trờng trơ, gây cản trở cho việc sử dụng đất lâu dài và gián
tiếp tác động tiêu cực đến cây trồng.
Ô nhiễm đất do chất độc hoá học
Theo thống kê của chính phủ Mỹ, gần 50% diện tích rừng và đất canh
tác ở miền Nam Việt Nam đã bị rải chất độc hoá học từ 1 lần trở lên. Mỹ đã sử
dụng 72 triệu lít chất làm rụng lá và diệt cỏ có nồng độ cao, trong đó chất độc
màu da cam có chứa dioxin chiếm 60%, chất trắng chiếm 13% và chất xanh
chiếm 27%. Cùng với 15 triệu tấn bom đạn cũng đợc thả xuống đã huỷ diệt
hàng triệu ha rừng và đất trồng trọt, nhiễm độc nhiều nguồn nớc, gây tổn hại
nghiêm trọng về số lợng và chủng loại các sinh vật, về chế độ khí hậu thuỷ
văn dòng chảy, đặc biệt gây hậu quả nghiêm trọng về sức khoẻ con ngời
[12].
2.1.2.2. Ô nhiễm môi trờng nớc
Ô nhiễm nớc mặt, nớc ngầm và nớc ven bờ ngày càng trở nên rõ rệt
ở Việt Nam. Hạ lu các con sông chính của Việt Nam có chất lợng n
ớc xấu
trong khi đó các ao, hồ, kênh mơng nội thị thì đang nhanh chóng biến thành


14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét