Thứ Tư, 5 tháng 3, 2014

BÀN VỀ VẤN ĐỀ TĂNG VỐN CHỦ SỞ HỮU ĐỂ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

BÀN VỀ VẤN ĐỀ TĂNG VỐN CHỦ SỞ HỮU ĐỂ NÂNG CAO
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế
giới WTO vào ngày 7/11/2006. Một trong những cam kết của Việt Nam khi
gia nhập WTO là mở cửa dần lĩnh vực ngân hàng – tài chính.
Đên nay tại Việt Nam đã có sự hiện diện của những tập đoàn ngân hàng
hàng đầu thế giới như Citibank, HSBC, ANZ… Theo đánh giá của AFP về
hệ thống ngân hàng Việt Nam thì công cuộc hiện đại hóa ngành tài chính
Việt Nam diễn ra chậm chạp nhưng vững chắc đã thúc đẩy các ngân hàng
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, nắm giữ một số cổ phần nhỏ nhưng quan
trọng ở các đối tác làm ăn tốt.
Chúng ta có thể thấy rằng, sau khi gia nhập WTO, thì lĩnh vực ngân hàng
– tài chính của Việt Nam sẽ trở nên rất sôi động. Các tổ chức tài chính nước
ngoài, đặc biệt là các ngân hàng lớn trên thế giới sẽ lần lượt tăng thêm ảnh
hưởng của mình tại Việt Nam với những công nghệ và sản phẩm dịch vụ
mới, hiện đại, cũng sẽ có những ngân hàng thương mại của Việt Nam không
cạnh tranh được và sẽ phải phá sản.
Vì vậy, đề tài này được nghiên cứu nhằm mục đích nâng cao khả năng
cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam bằng việc tăng vốn chủ
sở hữu của mình. Có như vậy, các ngân hàng thương mại Việt Nam mới có
thể đứng vững trên sân chơi toàn cầu này.
2. Đối tượng nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ tập trung vào việc nghiên cứu
vấn đề tăng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại nhà nước và các
ngân hàng thương mại cổ phần, các ngân hàng liên doanh.
1
3. Các phương pháp sử dụng để nghiên cứu.
Trong vấn đề nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng 3 phương pháp nghiên
cứu là: Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp lôgic, phương pháp
thống kê
- Phương pháp duy vật biện chứng sử dụng để nghiện cứu sự phát triển
của hệ thống ngân hàng thương mại việt nam trong trạng thái động, nghiên
cứu về quá trình tăng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại việt
nam hiện nay đang thực hiện là như thế nào
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này sủ dụng các tài liệu về các
ngân hàng thương mại Việt Nam dể đánh giá một cách khái quát quá trình
tăng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng này
- Phương pháp lôgic: Phương pháp này được sử dụng để phân tích mối
liên hệ giữa các vấn đề tác động từ bên trong cũng như bên ngoài tới các
ngân hàng thương mại để đẫn tới yêu cầu tăng vốn chủ sở hữu của các ngân
hàng thương mại việt nam
2
Phần nội dung
1. Cơ sở lý thuyết về tăng vốn chủ sở hữu để nâng cao năng lực cạnh
tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam
1.1. Khái niệm và tầm quan trọng của vốn chủ sở hữu đối với các ngân
hàng thương mại
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại hay còn gọi là vốn chủ sở hữu
của ngân hàng thương mại là nguồn tiền được đóng góp bởi những người
chủ ngân hàng. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành
nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiẹp vụ
hình thành loại vốn này tất đa dạng tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài
chính của chủ ngân hàng và yêu cầu phát triển của thị trường.
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại bao gồm giá trị thực có của
vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản "Nợ" khác của tổ chức tín dụng
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Vốn chủ sở hữu là căn cứ để tính
toán các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng. Vốn điều lệ là số
vốn được ghi trong điều lệ của ngân hàng, cũn cỏc quỹ dự trữ là cỏc quỹ
được ngân hàng trích lập và sử dụng theo những mục đích nhất định
Căn cứ vào nguồn hình thành của loại vốn này, chúng ta có các các các
phân loại vốn chủ sở hữu của ngân hàng gồm 4 loại là: nguồn vốn hình
thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động, các quỹ của
ngân hàng, quỹ thặng dư vốn và nguồn vay nợ có thể chuyển đổi
Thứ nhất là nguồn vốn hình thành ban đầu của ngân hàng. Căn cứ vào
nguồn gốc hình thành của mỗi ngân hàng khác nhau mà nguồn vốn ban đầu
của các ngân hàng cũng khác nhau. Đối với ngân hàng thương mại nhà nước
thì nguồn vốn ban đầu của ngân hàng này sẽ do nhà nước cấp vốn từ ngân
sách nhà nước. Đối với ngân hàng thương mại cổ phần, nguồn vốn hình
thành ban đầu của ngân hàng do các cổ đông thành lập ngân hàng đóng góp
thông qua việc mua cổ phần hay cổ phiếu của ngân hàng. Điều này có nghĩa
là giá trị vốn góp ban đầu của các cổ đông được chia làm nhiều phần nhỏ
bằng nhau. Với mỗi người khi nắm giữ một phần bằng nhau đó, họ trở thành
3
các cổ đông của các ngân hàng. Đối với ngân hàng liên doanh thì vốn góp
ban đầu do các thành viên liên doanh góp vốn. Nguồn vốn này đối với các
ngân hàng rất quan trọng. Nó là nguồn đề giúp cho các ngân hàng có thể
mua sắm trang thiết bị, xây dựng nhà cửa cho ngân hàng.
Thứ hai là nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động của ngân hàng.
Trong quá trình hoạt động của mình, ngân hàng tăng vốn chủ sở hữu của
mình theo nhiều cách khác nhau. Ngân hàng sử dụng phần lợi nhuận không
chia của mình để bổ sung làm tăng vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Theo đó,
ta thấy, dựa vào lợi nhuận sau thuế của ngân hàng sau khi đã chi trả cổ tức
cho các cổ đông, trích lập các quỹ như quỹ dự phòng rủi ro, quỹ khen
thưởng phúc lợi… thì còn lại phần lợi nhuận không chia của ngân hàng. Nhờ
có phần lợi nhuận không chia này mà ngân hàng có thể làm tăng thêm vốn
chủ sở hữu của mình, giúp ngân hàng có thể tái đầu tư nguồn vốn đó. Ngoài
ra, ngân hàng có thể bổ sung thêm cho vốn chủ sở hữu của mình thông qua
việc phát hành thêm cổ phiếu hay ngân hàng được tái cấp vốn. Đối với các
ngân hàng thương mại cổ phần thì một trong những cách chúng ta thường
thấy nhất là các ngân hàng này sẽ phát hành thêm cổ phiếu để tăng thêm vốn
chủ sở hữu của mình. Các ngân hàng cổ phần thường chủ yếu phát hành
thêm cổ phiếu cho các cổ đông của mình, trong trường hợp các cổ đông
không mua hết sẽ đem ra đấu giá ra công chúng. Với các ngân hàng thương
mại nhà nước thì trong quá trình hoạt động của mình, các ngân hàng này
cũng thường xuyên nhận được sự tái cấp vốn từ ngân sách nhà nước. Nhờ đó
mà quy mô của các ngân hàng này tăng lên nhanh chóng.
Thứ ba là các quỹ của ngân hàng thương mại. Mỗi quỹ của ngân hàng
được lập ra có những mục đích khác nhau. Quỹ dự phòng tổn thất được trích
lập hàng năm để đề phòng những tồn thất có thể xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn
được lập ra để bù đắp hao mòn của vốn đưới tấc động của lạm phát. Ngoài ra
còn có các quỹ khác của ngân hàng như quỹ khen thưởng phúc lợi, quỹ giám
đốc… Tuy nhiên, trong các quỹ này, chúng tôi muốn nhấn mạnh tới việc sử
dụng quỹ thặng dư vốn. Quỹ thặng dư vốn là phần đánh giá lại tài sản của
ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá của cổ phiếu khi phát hành
cổ phiếu mới. Điều này có nghĩa là khi đến một thời kì nhất định, ngân hàng
sẽ đánh giá lại tài sản của ngân hàng. Nếu giá trị đánh giá lại lớn hơn so với
giá trị đã khấu hao theo sổ sách thì ngân hàng đã có thêm một khoản vốn
mới nằm trong quỹ thặng dư vốn. Đặc biệt là khi ngân hàng phát hành cổ
phiếu mới, lúc này khoản chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá của trái phiếu
sẽ được ghi vào quỹ thặng dư vốn.
Thứ tư là nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần. Các khoản vay
trung và dài hạn của ngân hàng thương mại có khả năng chuyển đổi thành
vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận của vốn sở hữu của ngân hàng.
4
Nguồn vốn này có đặc điểm là sử dụng lâu dài, có thể dầu tư vào nàh cửa,
đát đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn. Nguồn vay nợ có thể
chuyển đổi thành cổ phần mà chúng ta thường gặp nhất là trái phiếu chuyển
đổi. Trái phiếu chuyển đổi có thời hạn trung bình từ 5 – 10 năm. Đối với trái
phiếu chuyển đổi, lãi suất của nó thường thấp hơn nhiều so với các trái phiếu
khác. Ngân hàng sẽ không phải chịu áp lực về trả nợ lãi và gốc cho trái
phiếu này. Khi ngân hàng tiến hành cổ phần hóa, những người chủ nợ sở
hữu trái phiếu sẽ được quyền chuyển từ trái phiếu này thành cổ phiếu theo
một tỉ lệ nhất định do ngân hàng quy định. Ngoài ra còn một loại trái phiếu
dài hạn khác là trái phiếu có lãi suất thả nổi. Thời hạn trung bình của loại trái
phiếu này thường từ 10 – 20 năm. Loại trái phiếu này luôn có lãi suất cao
hơn lãi suất ngân hàng. Do vậy, các ngân hàng sẽ phải trả lãi cho người nắm
giữ trái phiếu này cao hơn. Nhưng với loại trái phiếu này, do thời hạn của
trái phiếu rất dài nên ngân hàng hoàn toàn có thể chủ động trong việc sử
dụng nguồn vốn từ phát hành trái phiếu này.
Vốn chủ sở hữu rất quan trọng đối với hoạt động ngân hàng. Nó giúp cho
ngân hàng có thể đạt được tỉ lệ an toàn vốn theo quy định của ngân hàng nhà
nước. Tỉ lệ an toàn vốn được tính bằng tỉ số giữa vốn chủ sở hữu và tổng số
tiền gửi huy động được của ngân hàng. Hiện nay tỉ lệ này được quy định tối
thiểu là 8%. Những ngân hàng nào vốn chủ sở hữu lớn thì ngân hàng đó có
khả năng huy động được một lượng lớn tiền gửi từ công chúng. Nó sẽ làm
tăng quy mô của ngân hàng, làm tăng uy tín của ngân hàng trên thị trường.
Đặc biệt với những ngân hàng có tỉ lệ an toàn vốn cao, họ sẽ có được sự tin
tưởng của khách hàng khi gửi tiền, tạo ra được lợi thế cạnh tranh so với các
ngân hàng khác
1.2. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại là khả năng duy trì các
lợi thê của ngân hàng trên thị trường để đạt được mức lợi nhuận và chiếm
được mức thị phần nhất định hoặc có khả năng chống lại một cách thành
công sức ép của các lực lượng cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại được đánh giá trên 2 chỉ
tiêu, đó là năng lực tài chính và năng lực hoạt động kinh doanh
a. Năng lực tài chính
Năng lực tài chính được thể hiện qua 2 mặt là khả năng sinh lời và khả
năng phòng ngừa, chống đỡ rủi ro của ngân hàng
* Khả năng sinh lời của ngân hàng
5
Khả năng sinh lời của ngân hàng phản ánh sự hiệu quả của đồng vốn kinh
doanh trong hoạt động ngân hàng. Khả năng sinh lời được xác định chủ yếu
dựa trên 2 chỉ tiêu là doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) và doanh lợi tài sản
(ROA)
Doanh lợi vốn chủ sở hữu ROE được xác định bằng cách chi thu nhập
sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở
hữu Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất
trong hoạt động quả lý tài chính doanh nghiệp.
Doanh lợi tài sản ROA là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá
khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Doanh lợi tài sản được xác định
bằng cách lấy thu nhập sau thuế chia cho tổng tài sản
Với ngân hàng thương mại có tỉ số ROA và ROE càng cao thì nó phản
ánh khả năng sinh lời của ngân hàng đó càng lớn. Điều đó gớp phần nâng
cao năng lực tài chính của ngân hàng.
* Khả năng phòng ngừa và chống rủi ro của ngân hàng
Khả năng phòng ngừa và chống đỡ rủi ro của ngân hàng thương mại là
khả năng làm giảm đi những tác động xấu tới nguồn vốn và tài sản của ngân
hàng thương mại. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng và rủi ro có liên quan mật
thiết đến nhau. Vốn chủ sở hữu chủ yếu là tiền do những người chủ ngân
hàng đóng góp. Do vậy có rất nhiều rủi ro mà người chủ ngân hàng phải đối
mặt. Chúng bao gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi
ro hối đoái và rủi ro tội phạm
Rủi ro tín dụng: là rủi ro đối với ngân hàng khi người đi vay không thể
hoàn trả các khoản vay cho ngân hàng. Chúng ta đều biết rằng, ngân hàng
chủ yếu cho vay bằng các khoản tiền gửi của những người gửi tiền và các
khoản tiền ngân hàng đi vay. Do vậy, khi người vay không thể hoàn trả nợ
cho ngân hàng sẽ dẫn tới việc ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc hoàn trả
lãi và gốc cho người gửi tiền và chủ nợ ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản: là rủi ro khi ngân hàng không còn đủ tiền mặt để đáp
ứng nhu cầu rút tiền gửi và cho vay vốn đối với những khách ahngf chất
lượng tốt. Nếu ngân hàng không thể tăng lượng tiền mặt kịp thời, nó có thể
sẽ mất khách hàng và sụt giảm về lợi nhuận trong trường hợp không thể cho
vay khách hàng tốt. Còn khi ngân hàng không đủ khả năng thanh toán cho cá
khoản tiền rút ra của khách hàng thì nó sẽ đẫn đến tình trạng mất khả năng
thanh toán và có thể sụp đổ. Sự sụp đổ của một ngân hàng có thể dẫn tới sự
sụp đổ của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Rủi ro lãi suất: Ngân hàng phải đương đầu với rủi ro trong mức chênh
lệch lãi suất. Đây là mối nguy hiểm khi thu lãi từ các tài sản hoặc chi phi sẽ
tăng đang kể, thu hẹp khoản chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi, làm
giảm thu nhập ròng. Rủi ro về khả năng lãi suất thay đổi sẽ dẫn đến sự tăng
6
hoặc giảm giá trị của tài snr hay của những khoản thu nhập từ tài sản của
ngân hàng.
Rủi ro hoạt động: Là những rủi ro trong hoạt động của ngan hàng thương
mại do sự giảm sút chất lượng quản lý, do cung cấp những dịch vụ không
hiệu quả, do những sai lầm trong công tác quản lý hay do những thay đổi
trong nền kinh tế và sự cạnh tranh của cá đối thủ mới về dịch vụ tài chính
trên thị trường ngan hàng. Những thay đổi trên có thể tác động tiêu cực tới
dòng thu nhập làm tăng chi phí hoạt động của ngân hàng
Rủi ro tội phạm: Là những rủi ro do tham ô hay biển thủ tài sản ngân
hàng hay các vụ cướp ngân hàng.
Tất cả các rủi ro trên đều làm suy giảm hoạt động ngân hàng. Vì vậy, để
phòng tránh các rủi ro trên nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình,
các ngân hàng thương mại đã nâng cao chất lượng quản lý, đa dạng hóa các
nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn, thực hiện bảo hiểm tiền gửi và tăng vốn
chủ sở hữu của ngân hàng. Nâng cao chất lượng quản lý hoạt động ngân
hàng, đa dạng hóa các nguồn vốn và bảo hiểm tiền gửi là cá phương pháp
ngăn chặn rủi ro, vốn chủ sở hữu sẽ bù đáp cho sự tổn thất từ các khoản cho
vay và thua lỗ từ đầu tư chúng khoán, giúp ngân hàng có thể khắc phục được
những khó khăn trước mắt.
b. Năng lực hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Năng lực hoạt động kinh doanh của ngân hàng là khả năng chiếm lĩnh thị
phần về cho vay và các dịch vụ khác của ngân hàng thương mại
* Khả năng cho vay của ngân hàng thương mại
Cho vay là việc ngõn hàng đưa tiền cho khỏch hàng với cam kết khỏch
hàng phải hoàn trả cả gốc và lói trong khoảng thời gian xỏc định. Cho vay là
tài sản lớn nhất trong khoản mục tớn dụng. Cho vay thường được định lượn
theo 2 chỉ tiờu: Doanh số cho vay trong kỡ và dư nợ cuối kỡ. Doanh số cho
vay trong kỡ là tổng số tiền mà ngõn hàng đó cho vay ra trong kỡ. Dư nợ
cuối kỡ là số tiền mà ngõn hàng hiện cũn đang cho vay vào thời điểm cuối
kỡ.
Cỏc ngõn hàng thương mại chủ yếu cho vay bằng nguồn tiền gửi của
khỏch hàng và nguồn tiền vay của mỡnh, trong đú, chiếm chủ yếu là tiền
gửi. Ngõn hàng cú vốn chủ sở hữu càng lớn thỡ khả năng cú thể huy động
tiền gửi của nú càng cao. Nhờ vậy mà nú cú thể gia tăng đuợc hiệu quả cho
vay của mỡnh, đồng thời cú thể đỏp ứng đuợc việc cho vay với khối lượng
lớn. Do theo quy định hiện hành là ngõn hàng khụng được cho một tổ chức
vay quỏ 15% vốn chủ sở hữu của mỡnh, cỏc khoản vay vượt giới hạn trờn
đều phải cú sự xem xột của ngõn hàng nhà nước. Do vậy chỳng ta thấy rằng
7
khi ngõn hàng cú vốn chủ sở hũư lớn thỡ khả năng đỏp ứng nhu cầu đi vay
của khỏch hàng sẽ tốt hơn
* Khả năng phát triển các sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng thương mại
Ngõn hàng thương mại sẽ thực hiện việc huy động vốn dưới nhiều hỡnh
thức khỏc nhau, trờn nhiều địa bàn khác nhau và hướng tới nhiều đối tượng
khác nhau. Ngân hàng có thể huy động vốn với nhiều kỡ hạn khỏc nhau,
đồng thời đáp ứng cho các nhu cầu vay vốn khác nhau về kỳ hạn vay, loại
tiền vay bằng ngoại tệ hay nội tệ, cỏch giải ngõn
Ngoài ra cỏc ngõn hàng hiện nay đang cố gắng phát triển các dịch vụ
thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển khoản, nhờ thu và nhờ chi qua hệ
thống ngân hang, tài trợ cho xuât nhập khẩu.
Một xu hướng khác của các ngân hàng là thực hiện cỏc nghiệp vụ quản lý
ngõn quỹ, tài sản, mụi giới chứng khoỏn, đầu tư chứng khoán, kinh doanh
bảo hiểm, cho thuê tài chính bằng cách thành lập các công ty con hạch toán
độc lập với ngân hàng như công ty chứng khoán, công ty cho thuê tài chính,
công ty bảo hiểm…
1.3. Vai trũ của vốn chủ sở hữu trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh
của ngân hàng thương mại
a. Vai trũ của vốn chủ đối với việc nâng cao năng lực tài chính của ngân
hang
Thứ nhất, vốn là điều kiện đầu tiên và bắt buộc đối với ngân hàng để nó
có đựoc giấy phép tổ chức và hoạt động. Cũng như bất kỡ cỏc cụng ty khỏc,
ngõn hàng cần có tiền để có thể xây dựng hay thuê nơi làm việc, phải có tiền
để mua sắm trang thiết bị, trả lương cho công nhân viên. Vỡ vậy mà ngõn
hàng phải có một lượng tiền nhất định ban đầu để có thể thực hiện được
những điều đó. Nhưng khi ngân hàng vừa thành lập, nó chưa thực hiện được
bất kỡ một hoạt động kinh doanh nào nên chưa thu được lói, số tiền huy
động vốn ban đầu cũng không thể dùng ngay để mua sắm trang thiết bị. Do
đó, vốn chủ sở hữu với ngõn hàng lúc này đóng vai trũ vụ cựng quan trọng.
Nú cú thể trang trải một phần chi phớ hoạt động cho ngân hang, là cơ sở để
cho các cơ quan quản lý nhà nước có thể cấp giấy phép hoạt động kinh
doanh cho ngân hang.
Thứ hai, vốn tạo niềm tin cho công chúng và là sự bảo đảm đối với chủ
nợ, bao gồm cả những người gửi tiền về sức mạnh tài chính của ngân hang.
Ngân hàng cần phải đủ mạnh để có thể đảm bảo với những người đi vay
rằng ngân hàng có thể đáp ứng các nhu cầu tín dụng của họ ngay cả trong
điều kiện nền kinh tế khó khăn. Đối với các chủ nợ và những người gửi tiền,
họ sẽ quyết định xem có nên cho ngân hàng vay tiền hay gửi tiền vào ngõn
8
hàng khụng. Họ sẽ xem xột vốn chủ sở hữu của ngõn hang, nếu tỉ lệ vốn chủ
quỏ thấp so với tổng số tiền huy động được thỡ khả năng rủi ro đối với ngân
hàng rất cao, đặc biệt là khi cần để đáp ứng nhu cầu thanh toán. Cũn với
những người đi vay, họ có thể thấy rằng với những ngân hàng nhỏ, lợi thế
cạnh tranh và quy mô huy động vốn của những ngân hàng này sẽ bị giới hạn,
những ngõn hàng đó chưa chắc đó đáp ứng được nhu cầu vốn của mỡnh.
Mặt khỏc, khi hoạt động ngân hàng nhỏ lẻ như vậy thỡ sẽ dẫn đến gia tăng
chi phí cho hoạt động của mỡnh, ngõn hàng có thể tăng lói suất cho vay đối
với người đi vay làm mất dần khả năng cạnh tranh của mỡnh.
Thứ ba là vốn đóng một vai trũ như một tấm đệm giúp chống lại các rủi
ro phá sản của ngân hàng vỡ vốn giỳp ngõn hàng trang trải những thua lỗ về
tài chớnh và nghiệp vụ cho tới khi ban quản lý cú thể tập trung giải quyết
cỏc vấn đề và đưa ngân hàng trở lại trạng thái hoạt động sinh lời. Ta cũng
biết rằng, với các ngân hàng ban đầu khi thành lập, họ sử dụng chủ yếu là
vốn chủ của mỡnh. Do vào thời điểm khi mới thành lập, các ngân hàng chưa
có được thương hiệu. Vỡ vậy, chi phớ để huy động tiền gửi từ ngân hàng
này sẽ có thể phải cao hơn so với các ngân hàng khác, đồng thời sự cạnh
tranh của ngân hàng này với cỏc ngõn hàng khác cũng khó khăn hơn. Mặt
khác, khi đó, ngân hàng cũng vẫn phải đáp ứng các nhu cầu vay vốn của
khách hang. Do vậy trong thời điểm này, vốn chủ đóng một vai trũ rất quan
trọng đối với hoạt động ngân hang. Hay như khi nền kinh tế đang suy thoái
thỡ việc sử dụng vốn vay nợ sẽ làm tăng chi phí hoạt động của ngân hàng
lên nhiều, trong khi khả năng cho vay lại rất hạn chế. Lúc đó, ngân hàng sẽ
phải dựa rất nhiều vào vốn chủ sở hữu của mỡnh. Trong điều kiện nền kinh
tế phát triển, các ngân hàng sẽ không dựa chủ yếu vào vốn chủ nữa mà sẽ
dựa chủ yếu vào vốn vay nợ và tiền gửi để có thể đẩy nhanh được tốc độ
phát triển của mỡnh. Bởi trong điều kiện nền kinh tế này, nhu cầu vay để
đầu tư là rất lớn. Nếu ngân hàng chỉ dựa vào vốn chủ thỡ sẽ khụng thể đáp
ứng được các nhu cầu vay vốn và sẽ làm lóng phớ vốn chủ sở hữu của
mỡnh. Trong khi đi vay và tăng việc huy động tiền gửi sẽ giúp tăng quy mô
hoạt động của ngân hàng hơn. Nói vậy, không có nghĩa là trong giai đoạn
nền kinh tế đang phát triển thỡ vốn chủ sở hữu lại khụng cú vai trũ gỡ. Nú
vẫn là cơ sở chủ yếu để các ngân hàng có thể huy động được tiền gửi hay đi
vay nợ.
Do vậy, quản lý và sử dụng vốn chủ sở hữu tốt sẽ làm tăng được hiệu quả
cho các hoạt động kinh doanh của ngân hang, từ đó làm nâng cao năng lực
tài chính của ngân hang
b. Vai trũ của vốn chủ sở hữu đối với việc nâng cao năng lực hoạt động
kinh doanh của ngân hang
9
Vốn của ngõn hàng cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và
phát triển các hỡnh thức dịch vụ mới. Ngoài hoạt động tín dụng là hoạt động
chủ yếu của các ngân hàng Việt Nam hiện nay thỡ cỏc ngõn hàng cũn phỏt
triển rất nhiều dịch vụ phục vụ cho khỏch hang. Một trong những dịch vụ
phổ biến nhất của cỏc ngõn hàng đó là thực hiện thanh toán không dùng tiền
mặt và sử dụng máy rút tiền tự động ATM. Để đầu tư vào những dịch vụ này
thỡ ngõn hàng cần phải cú vốn lớn. Hầu hết cỏc ngõn hàng đểu mở rộng và
phát triển cở sở vật chất so với lúc đầu và sự bổ sung vốn sẽ cho phép ngân
hàng mở rộng trụ sở, xây dụng thêm những văn phũng chi nhánh để theo kịp
sự phát triển của tăng trưởng và tăng cường chất lượng phục vụ khác hàng
1.4. Áp lực của các ngân hàng thương mại trong vấn đề tăng vốn tự có
Các ngân hàng trong những năm gần đây đang chịu một áp lực rất lớn từ
nhiều phía buộc phải tăng mức vốn để đảm bảo tăng trưởng và giảm rủi ro
cho những người gửi tiền. Có rất nhiều yếu tố gây lên áp lực này, bao gồm
các yếu tố thuộc về cơ quan quản lý và cỏc yếu tố thuộc thị trường tài chính.
Lạm phát là một yếu tố quan trọng gây áp lực tăng vốn, bời vỡ mặc dự
lạm phỏt nõng cao giỏ trị tài sản của ngõn hàng nhưng lạm phát cũng đồng
thời nân cao giá trị của các khoản nợ và kết quả là giá trị vốn của ngân hàng
có chiều hướng giảm sút.
Nền kinh tế ngày càng biến động buộc các ngân hàng phải bổ sung quy
mô vốn của mỡnh vỡ mụi trường kinh tế này sẽ dễ dẫn đến các rủi ro cao
hơn trong hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng có thể sẽ phải chịu chi phí
cao hơn trong các hoạt động kinh doanh của mỡnh. Chi phí hoạt động tăng
lên đặc biệt là chi phí về đất đai, trang thiết bị, chi phí nhân sự tăng cao đó
gõy khú khăn cho vấn đề tăng thu nhập của ngân hàng – nguồn cơ bản để
tăng vốn hàng năm. Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế cũn nhiều rủi ro,
nhất là như tại Việt Nam hiện nay khi mà quyền đũi nợ vẫn chưa được tôn
trọng thỡ cỏc ngõn hàng cú thể sẽ dẫn đến tỡnh trạng bị mất vốn khi khỏch
hàng khụng trả nợ do hoạt động kinh doanh của khách hàng gặp khó khăn
hoặc khách hàng không có ý định trả nợ ngân hàng. Do vậy hoạt động ngân
hàng sẽ gặp rất nhiểu tồn thất, do vậy, ngân hàng cần phải tăng vốn của
mỡnh lờn để có thể gia tăng được quy mô hoạt động của mỡnh, đa dạng các
khoản đầu tư sẽ làm giảm đi các rủi ro cho ngân hàng.
Các ngân hàng phải tăng vốn để đảm bảo hoạt động kinh doanh của
mỡnh diễn ra theo đúng các quy định của pháp luật. Đối với các ngân hàng
Việt nam, quy định về tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng
thương mại phải đạt tối thiểu 8% tức là tỷ lệ vốn chủ sở hũu trên tổng tài sản
có là 8%; quy định về cho vay đối với một khách hàng của ngân hàng
10
thương mại không được vượt quá 15% vốn chủ sở hữu của ngân hàng, nếu
quá tí lệ này thỡ cỏc ngõn hàng thương mại không được phộp tự cho vay mà
phải xin ý kiến của ngõn hàng nhà nước, nếu được ngân hàng nhà nước chấp
thuận thỡ ngõn hàng thương mại mới được đồng ý cho vay; quy định về mức
độ huy động tiền gửi của các ngân hàng thương mại không được vượt quá 20
lần vốn chủ của ngõn hàng. Mặt khỏc, nhu cầu vay vốn của cỏc khỏch hang
là rất lớn, những cụng ty lớn thỡ cần đầu tư cho những dự án lớn mà có thể
phải sau 10 – 20 năm mới sinh lói, những cụng ty khỏc thỡ cần vay để thanh
toán, mua sắm tài sản lưu động, tăng dự trữ, đầu tư xây dựng nhà xưởng. Do
vậy, để có thể đáp ứng được những điều đó thỡ ngõn hang cần phải tăng vốn
chủ sở hữu của mỡnh lờn làm tăng. Do vậy, các ngân hàng muốn đáp ứng
được các yêu cầu trên thỡ phải gia tăng vốn chủ sở hữu của mỡnh, như vậy
nó sẽ tăng được sự an toàn trong hoạt động ngân hàng và đảm bảo được các
lợi ích của mỡnh trong kinh doanh.
Các ngân hàng thương mại muốn tăng vốn để có thể giảm thiểu nguy có
thôn tính từ các tập đoàn ngân hàng khác. Đối với Việt nam, khi chúng ta
mở cửa nền kinh tế thỡ đó cú những dũng tiền rất lớn từ nước ngoài đổ vào.
Đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, rất nhiều hiệp định thương mại đó được
ký giữa Việt nam và cỏc nước trên thế giới. Theo đó, Việt Nam sẽ dần mở
cửa lĩnh vực ngân hàng tài chính, một lĩnh vực mà truớc đây chúng ta vẫn có
sự hạn chế đối với các ngân hàng nước ngoài. Theo những cam kết của Việt
Nam trong gia nhập WTO, các ngân hàng thương mại nước ngoài được thực
hiện các hoạt động nhận tiền gửi, cho vay, cho thuê tài chính, bảo lónh, kinh
doanh tren tài khoản của mỡnh hoặc của khỏch hàng tại sở giao dịch, trờn thị
trường giao dịch thỏa thuận, môi giới tiền tệ, quản lý danh mục đầu tư, các
dịch vụ thanh toán và bù trừ tài sản tài chính… như các ngân hàng Việt nam
mà không chịu sự hạn chế, tuy nhiên vẫn có sự hạn chế đối các ngân hàng
nước ngoài trong việc xuất hiện ở Việt nam dưới các hỡnh thức là văn phũng
đại diện, chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài, ngân hàng thuơng
mại liên doanh trong đó phần vốn góp của bên nước ngoài không vựot quá
50% vốn điều lệ ngân hàng liên doanh, không được mua cổ phần của các
công ty việt nam trong lĩnh vực ngân hàng tài chính quá 30% vốn điều lệ.
Tuy nhiên, về lâu dài thỡ những hạn chế trờn sẽ dần được tháo bỏ và các
ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ phải cạnh tranh bằng chính năng lực của
mỡnh. Do vậy tăng vốn sẽ giúp cho các ngân hàng có thể phát triển mạnh
hơn, đồng thời việc gia tăng quy mô vốn sẽ giúp cho các tập đoàn nước
ngoài gặp khó khăn hơn trong việc thâu tóm ngân hàng thương mại Việt
Nam.
Trong quỏ trỡnh hội nhập ngày nay, việc thành lập các tập đoàn để phát
triển là một xu thế tất yếu. Việc thành lập các tập đoàn kinh doanh đa ngành
11
đa lĩnh vực có rất nhiều ưu điểm. Nó giúp cho các tập đoàn có thể đa dạng
hóa các hoạt động, giảm thiểu các rủi ro không hệ thống tác động, có thể dẫn
đến được việc thâu tóm các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, có thể mở
rộng được hoạt động ra ngoài quốc gia, vươn ra thế giới. Tuy nhiên nó cũng
có nhược điểm khi nhu cầu vốn cho việc này rất lớn và cũng phải mất một
thời gian dài. Do vậy, các ngân hàng thương mại cần phải tăng thêm vốn chủ
sở hữu của mỡnh để gia tăng quy mô hoạt động. Rất nhiều các ngân hàng đó
thành lập cỏc cụng ty chứng khoỏn, cụng ty bảo hiểm, cụng ty cho thuờ tài
chớnh, cụng ty quản lý quỹ… hạch toỏn độc lập với ngõn hàng hay gúp vốn
liờn doanh, mua cổ phần của cỏc cụng ty khỏc.
Vỡ vậy chỳng ta cú thể thấy rằng, tăng vốn là một trong những vấn đề
sống cũn của ngõn hàng, nú giỳp ngõn hàng cú thể nõng cao được năng lực
cạnh tranh của mỡnh, phỏt triển trở thành những tập đoàn lớn đa ngành, đa
lĩnh vực.
2. Kế hoạch của ngõn hàng cho việc quản lý vốn và phỏt triển vốn
Trước áp lực ngày càng lớn đối với việc duy trỡ và nõng cao mức vốn
hợp lý, ngõn hàng thương mại đó dần nhận thấy sự cần thiết phải lập cỏc kế
hoạch dài hạn cho việc quản lý và phỏt triển vốn. Cỏc kế hoạch đó thường
được lập theo 4 bước chính sau:
Bước 1: Thiết lập kế hoạch tài chính tổng thể cho ngân hàng
Hội đồng quản trị và ban giám đốc trước hết phỉa xác định rừ vấn đề: Họ
muốn phát triển một ngân hàng loại nũa? Những nội dung cần được trả lời
liên quan đến vấn đề này bao gồm: ngân hàng được phát triển với quy mô
nào? Ngân hàng nên cung cấp những dịch vụ nào? Mức độ lợi nhuận nào là
thích hợp với ngân hàng trong dài hạn?
Càng ngày, cỏc ngõn hàng càng phỉa gắn những kế hoạch về vốn với
danh mục dịch vụ ngân hàng sẽ cung cấp trong tương lai. Sự nới lỏng quản
lý đối với hệ thống ngân hàng tại từng quốc gia đó mở ra khả năng cung ứng
dịch vụ trong nhiều lĩnh vực mới như kinh doanh chứng khoán, cung cấp các
dịch vụ bảo hiểm… Hội đồng quản trị phải xác định dược ảnh hưởn của việc
cung cấp dịch vụ mới đối với vấn đề rủi ro trong hoạt động ngân hàng, đặc
biệt là rủi ro biến động thu nhập và rủi ro phá sản. Một số dịch vụ mới sẽ
góp phần làm giảm rủi ro, và như vậy làm giảm yeu cầu về vốn trong khi đó
một số khác lại góp phần làm giảm rủi ro dẫn đến nâng cao mức vốn yêu
cầu. Tất nhiên, chất lượng công tác quản lý ngõn hàng là yếu tố hàng đâu
ftrong việc quyết định liệu ngân hàng có thể thực sự hạn chế đưộc rủi ro
thụng qua việc cung ứng cỏc dịch vụ mới hay kihụng
12
Bước đầu tiên của kế hoạch đáp ứng nhu cầu vốn liên quan đến việc lập
các báo cáo tài chính giả định, phân tích mức độ nhạy cảm đối với những kết
quả có thể xảy ra và phát triển những dự đoán bước đầu về nh cầu vốn với
giả định rang các chính sách của ngân hàng không thay đổi. Điều quan trọng
là hội đồng quản trị phải chuẩn bị kỹ lưỡng cho những điều có thể xảy ra
trong tương lai.
Bước 2: Căn cứ vào mục tiêu hoạt đông, các dịch vụ dự định cung ứng,
mức rủi ro có thể hcấp nhận và các quy định của nhà nước, ngân hàng xác
định quy mô vốn hợp lý
Hội đồng quản trị cần thấy rằng ngân hàng phải đối mặt với hai đũi hỏi
về vốn, một được đưa ra theo yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước như
ngân hàng nhà nước và hai là yêu cầu cảu các nhà đầu tư trên thị trường về
mức độ an toàn của ngân hàng. Vốn chủ sở hữ quá lớn làm giảm hiệu quả
của đũn bẩy tài chớnh, làm giảm quy mụ của việc sử dụng cỏ khoản vốn vay
và do đó làm giảm thu nhập tiềm năng. Trong điều kiện bỡnh thường nó sẽ
làm giảm giá trị của ngân hàng. Vốn chủ sở hữu quá nhỏ so với rủi ro của
ngân hàng có thể khiến cho các nhà đầu tư trên thị trường vốn có ấn tượng
rằng thu nhập của ngân hàng sẽ biến động mạnh trong tương lai và những
người gửi tiền quy mô lớn sẽ trở nên lo ngại về khả năng mất vốn. Giá trị
của ngân hàng khi đó cũng có xu hướng giảm và ngwoif gửi tiền cũng như
các chủ nợ khác sẽ yêu cầu mức lói cao hơn cho những khoản vốn của họ.
Bước 3: Xác định lượng vốn có thể được tạo ra từ việc không chi lợi
nhuận
Hội đồng quản trị phải xác định một tỷ lệ lợi nhuận được dùng để chi trả
cổ tức cho cổ dông và phần lợi nhuận không chi để phục vụ cho việc tăng
trưởng trong thu nhập đẻ có thể thấy được khả năng đáp ứng nhu cầu vốn từ
nguồn nội bộ
Bước 4: Đánh giỏ và lựa chọn nguồn vốn phự hợp nhất với những nhu
cầu và mục tiờu của ngõn hàng.
Để có thể lựa chọn được nguồn vốn tốt nhất, ngân hàng cần phải giải
quyế một số vấn đề sau: Điều gỡ sẽ xảy ra trờn thị trường nếu ngân hàng
phát hành thêm cổ phiếu hay các chứng khoán nợ. Quyền và lợi ích của các
cổ đông sẽ thay đổi như thế nào và mức độ chắc chắn của Hội đồng quản trị
trong việc dự đoán luồng thu nhập trong tương lai. Các ngân hàng ngày nay
có một số cách thức để có thể làm tăng mức vốn dài hạn của mỡnh như bán
cổ phiếu, phát hành tín phiếu vốn, bán tài sản, cho thuê tụ sơ hoặc đẩy nhanh
mức tăng trưởng của thu nhập.
13
3. Thực trạng và giải pháp cho việc tăng vốn chủ sở hữu của các ngân
hàng thương mại Việt Nam
3.1. Thực trạng vấn đề tăng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương
mại Việt Nam
Theo Ngân hàng Nhà nước, thách thức lớn nhất đối với quá trỡnh hội
nhập quốc tế trong dịch vụ ngõn hàng của Việt Nam là xuất phỏt điểm về
trỡnh độ phát triển thị trường cũn thấp, tiềm lực về vốn yếu, cụng nghệ và tổ
chức ngõn hàng lạc hậu, trỡnh độ quản lý thua kém hơn so với nhiều nước
trong khu vực cũng như trên thế giới.
Để có thể chinh phục được những thử thách này, hai mục tiêu chính của
các ngân hàng trong thời gian sắp tới là tăng vốn điều lệ và chú trọng vào
đầu tư những công nghệ hiện đại nhất.
Hiện tại, tổng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại nhà nước mới
đạt trên 21.000 tỷ đồng. Dư nợ tín dụng mới đạt xấp xỉ 55% GDP, thấp hơn
nhiều so với mức trên 80% của các nước trong khu vực. Bỡnh quõn, mức
vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại nhà nước khoảng từ 200 đến
250 triệu USD, chỉ bằng một ngân hàng cỡ trung bỡnh trong khu vực. Cũn
cỏc ngõn hàng thương mại cổ phần có mức vốn điều lệ bỡnh quõn chỉ
khoảng từ 200 đến 300 tỷ đồng.
Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần, tăng vốn điều lệ lên đồng
nghĩa họ sẽ bán cổ phần mỡnh cho ngõn hàng nước ngoài, giá bán cổ phần
cho ngân hàng nước ngoài sẽ cao hơn và ngược lại, các ngân hàng sẽ tự mở
được cánh cửa để mời chào sự tham gia của đối tác ngoại. Nhờ có khoản thu
đó từ việc bán cổ phần cho các ngân hàng nước ngoài mà các ngân hàng
thương mại cổ phần có thêm được phần thặng dư vốn để làm tăng thêm vốn
chủ sở hữu của mỡnh lờn. Ngoài ra, các ngân hàng đó tăng thêm vốn chủ sở
hữu từ việc phát hành thêm cổ phần bán cho cổ đông cũng
Nắm bắt được quyền lợi của mỡnh và nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước,
kể từ đầu năm 2006, đồng loạt các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
đều có sự điều chỉnh vốn điều lệ. Nâng mức vốn điều lệ lên 1.000 tỷ đồng
đang là đích ngắm của nhiều ngân hàng thương mại cổ phần trong lộ trỡnh
tăng vốn từ nay đến năm 2010.
Khởi đầu là ngân hàng Á Châu (ACB) chính thức tăng vốn điều lệ từ
948,32 tỷ đồng lên 1.100 tỷ đồng. Tiếp đó, ngân hàng Quốc tế (VIB Bank)
cũng đó đẩy vốn điều lệ của mỡnh từ 595 tỷ đồng lờn trên 711 tỷ đồng. Mới
đây nhất, ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (Habubank) được Ngân hàng Nhà
nước chấp thuận tăng vốn điều lệ từ 500 tỷ đồng lên 900 tỷ đồng, trong đó
có 250 tỷ dành cho cổ đông cũ và 150 tỷ đồng cho các cổ đông mới. Mới
chính thức công bố khai trương hoạt động từ tháng 10 năm 2006 tại Hà Nội
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét