Thứ Ba, 21 tháng 1, 2014

Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ .doc

ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
thời với cơ sở vật chất kĩ thuật không lớn, DNN&V dễ dàng chuyển đổi hướng
sản xuất hoặc thu hẹp quy mô mà không sợ gây ra những hậu quả nặng nề.
- Với tính chất nhỏ gọn, DNN&V chỉ cần đầu tư ít vốn vẫn có khả năng
trang bị những máy móc với công nghệ cao và tương đối hiện đại. Tổ chức
gọn nhẹ góp phần tiết kiệm chi phí quản lí, nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp.
- DNN&V cần ít diện tích đất sản xuất tập trung, có khả năng sản xuất
nhỏ lẻ, do đó có thể tận dụng được các nguồn lực phân tán, phát huy được
tiềm lực tại các địa phương trong cả nước như: khai thác tài nguyên tại chỗ,
thu hút lao động có sẵn tại địa phương.
- Vốn đầu tư ban đầu của DNN&V tuy ít nhưng mang lại hiệu quả kinh
tế cao, thu hồi vốn nhanh do đó có khả năng thu hút nhiều cá nhân, tổ chức ở
mọi thành phần kinh tế đầu tư vào khu vực này.
1.1.2.2 Những bất lợi:
- Khả năng cạnh tranh thấp dó tiềm lực về kinh tế yếu: DNN&V có
vốn chủ sở hữu ít, mặt khác thường thiếu tài sản thế chấp nên rất khó để
vay vốn ngân hàng, còn việc huy động vốn trên thị trướng chứng khoán
cũng rất khó khăn. Nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động được chủ yếu
là từ người thân, bạn bè. Do đó DNN&V luôn thiếu vốn làm hạn chế
cũng như bỏ lỡ mất cơ hội kinh doanh, không đáp ứng được yêu cầu mở
rộng sản xuất, dẫn đến khả năng tự tích lũy của các doanh nghiệp cũng bị
hạn chế.
- Khả năng hạn hẹp trong việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nghiên
cứu, cải tiến công nghệ, đổi mới sản phẩm: do hạn chế về vốn nên có những
kế hoạch và chiến lược phát triển tốt bị bỏ qua dẫn đến khả năng cạnh tranh
trên thị trường của các doanh nghiệp này thấp.
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
5
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
- DNN&V với quy mô kinh doanh không lớn, khả năng tài chính hạn
hẹp, sức cạnh tranh thấp do đó trong nhiều trường hợp thường bị động vì phụ
thuộc vào hướng phát triển của các doanh nghiệp lớn.
1.1.3 Vai trò của DNN&V
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, song với những lợi thế của mình các
DNN&V ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia, kể cả nước có trình độ phát triển cao. Nhật Bản và các quốc gia
châu Á đều đánh giá cao vai trò của DNN&V trong quá trình phát triển kinh
tế của mình, trong đó Đài Loan được nhắc đến như là một điển hình tành
công, là vương quốc của DNN&V. Năm 2000, DNN&V Đài Loan chiếm
khoảng 96% tổng số doanh nghiệp, tạo ra khoảng 40% sản lượng công
nghiệp, hơn 50% giá trị xuất khẩu và tạo ra hơn 70% công ăn việc làm mới.
Đặc biệt, nhờ có DNN&V mà nền kinh tế Đài Loan đã giữ được ổn định
trong cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997. Ở Đức, khu vực
DNN&V nắm giữ một vị trí quan trọng đối với nền kinh tế, nó tạo ra 50%
GDP, chiếm hơn 1/2 doanh thu chịu thuế của các doanh nghiệp, cung cấp các
loại hàng hóa dịch vụ, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng trong và
ngoài nước.
Tại Việt Nam, các DNN&V được phát triển một cách chính thức kể từ
khi có sự ra đời của Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty áp dụng vào
năm 1990 và sửa đổi thành Luật doanh nghiệp năm 1999. Từ đó, số lượng
DNN&V ở nước ta ngày càng gia tăng một cách mạnh mẽ. Hiện nay,
DNN&V ở Việt Nam chiếm khoảng 97% trong tổng số hơn 200.000 doanh
nghiệp đã thành lập trên toàn quốc. Các doanh nghiệp này đang đóng góp
khoảng 26% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, tạo ra hơn
49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn và thu hút hơn 26% lao động
trong cả nước. Tuy nhiên đây chỉ là con số đóng góp trực tiếp, ngoài ra
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
6
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
DNN&V còn có vai trò lớn trong mối quan hệ gắn kết với các doanh
nghiệp lớn hơn.
Như vậy ta có thể khẳng định rằng đối với bất kì nền kinh tế nào thì
DNN&V cũng đóng một vai trò quan trọng, thể hiện ở:
- Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn, đóng góp đáng kể vào
sự phát triển ổn định của của mỗi quốc gia. Khi các DNN&V hoạt động tích
cực và hiệu quả thì sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh thực sự, phá vỡ một phần
thế độc quyền của một số doanh nghiệp lớn, làm cho hàng hóa dịch vụ rẻ hơn,
phục vụ tốt nhu cầu của người tiêu dùng. Ngoài ra các DNN&V có khả năng
thay đổi mặt hàng, công nghệ, chuyển hướng kinh doanh nhanh làm cho nền
kinh tế năng động hơn. Mặt khác, các DNN&V đóng góp vào GDP với một tỷ
trọng tương đối lớn, do đó việc phát triển DNN&V có vai trò quan trọng trong
sự phát triển của nền kinh tế.
- Thu hút lao động, tạo ra nhiều việc làm với chi phí đầu tư thấp, góp
phần giảm thất nghiệp. Nhìn chung, theo các số liệu thống kê ở một số
nước châu Á thì các DNN&V chiếm khoảng 81 – 98% số doanh nghiệp,
thu hút khoảng 30 – 60% lao động. Ở Việt Nam, số lượng DNN&V chiếm
khoảng 97% trong tổng số doanh nghiệp đã đăng kí hoạt động, đóng góp
khoảng 26% GDP của nền kinh tếvà thu hút khoảng 26% lực lượng lao
động trong cả nước.
- Tạo nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên cho dân cư, góp phần giảm
bớt chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận dân cư, tạo sự phát triển đồng
đều giữa các vùng trong cả nước do DNN&V có khả năng tận dụng những
tiềm năng sẵn có tại địa phương. Việc phát triển các doanh nghiệp thuộc
ngành nghề truyền thống trong nông thôn hiện nay là một trong những hướng
quan trọng và được Nhà nước hết sức hỗ trợ vì không những làm tăng thu
nhập cho người dân mà còn góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc.
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
7
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
- DNN&V hỗ trợ các doanh nghiệp lớn nâng cao hiệu quả kinh tế. Thực
tiễn cho thấy một nền kinh tế có công nghệ hiện đại sẽ không hoàn chỉnh và
không hiệu quả nếu không có những doanh nghiệp lớn và những doanh
nghiệp có quy mô nhỏ hơn. Mối liên hệ thể hiện thông qua việc doanh nghiệp
lớn cung cấp nguyên liệu sơ chế, thành phẩm, thiết bị, máy móc cho các
doanh nghiệp nhỏ. Đồng thời các DNN&V tiếp nhận việc xây dựng cơ sở sản
xuất và trang thiết bị, chế tạo các bộ phận đơn giản, cung cấp các dịch vụ
công nghiệp như lắp đặt, sửa chữa bảo dưỡng, … cho các doanh nghiệp lớn.
Ngoài ra, DNN&V còn đóng vai trò làm đại lý, vệ tinh cho các doanh nghiệp
lớn, giúp tiêu thụ hàng hóa, thâm nhập vào các ngõ ngách của thị trường mà
các doanh nghiệp lớn không tới được.
- Khu vực DNN&V đặc biệt là các DNN&V ở nông thôn phát triển góp
phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghịêp hóa. Các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng lên, phát triển nhiều ngành nghề đa
dạng, phong phú, doanh nghiệp đươc phân bố đều hơn. Các doanh nghiệp ở
nông thôn như: doanh nghiệp chế biến nông sản, phát triển các ngành nghề ở
địa phương, … không những tạo đầu ra cho nguyên liệu từ nông nghiệp, nâng
cao giá trị của nông sản mà còn thu hút lao động từ khu vực nông thôn, góp
phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Có thể nói, sự phát
triển của DNN&V ở nông thôn đã làm hài hòa các mối quan hệ giữa nông
nghiệp và công nghiệp, giữa nông thôn và thành thị, góp phần xây dựng và
phát triển nông thôn mới, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
- DNN&V nếu có điều kiện phát triển tốt thì đây chính là môi trường
hình thành và phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động. Cùng với
việc phát triển các DNN&V là sự xuất hiện các nhà kinh doanh sang lập,
bắt đầu kinh doanh với quy mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý sẽ
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
8
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
được thử thách, đào tạo và tích lũy kinh nghiệm trở thành những nhà
doanh nghiệp lớn.
Đối với Việt Nam, một nước có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn so
với các nước trong khu vực và trên thế giới, đang trong thời kì đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì vai trò của DNN&V lại càng quan trọng.
Do đó, Nghị quyết TW khóa X đã nhấn mạnh: “ DNN&V là lọai hình doanh
nghiệp rất phù hợp để phát huy mọi tiềm năng cho việc phát triển kinh tế và
bước đầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, phải quan tâm
tới mọi thuận lợi cho DNN&V, kinh tế hộ gia đình phát triển”. Đây có thể
coi là một chủ trương đúng của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với đặc điểm
nền kinh tế hiện nay.
1.2 Hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V của NHTM
1.2.1Các vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM
1.2.1.1 Khái niệm cho vay trung, dài hạn của ngân hàng
Cho vay là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa hai chủ
thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng
trong thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản ca kết hoàn trả
theo thời gian đã thỏa thuận.
Cho vay trung, dài hạn là các khoản cho vay của ngân hàng có thời hạn từ
một năm trở lên. Việc phân chia cụ thể hoạt động cho vay trung, dài hạn tùy
thuộc vào quy định của từng quốc gia, thông thường:
Cho vay trung hạn là những khoản cho vay có thời hạn từ 12 tháng đến 5 năm
để tài trợ mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kĩ thuật, mở rộng công
trình có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
Cho vay dài hạn là những khoản cho vay có thời hạn từ 5 năm trở lên được sử
dụng để xây dựng, cải tạo hay hoàn thiện đồng bộ dây chuyền công nghệ.
1.2.1.2 Đặc điểm của hoạt động cho vay trung, dài hạn của NHTM
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
9
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
Có nhiều căn cứ để phân loại hoạt động cho vay của NHTM, nếu căn cứ
vào thời hạn thì có thể phân thành: cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và
cho vay dài hạn. Cho vay trung và dài hạn là những khoản vay có kỳ hạn vay
từ 12 tháng trở lên, có những đặc điểm sau:
a, Về đối tượng cho vay: Những khoản cho vay trung, dài hạn chủ yếu
được tài trợ cho những hoạt động đầu tư trung và dài hạn kéo dài từ 1 năm trở
lên như mua sắm thiết bị , đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, thực hiện các dự án đầu tư.
b, Về lãi suất cho vay: Do mức độ rủi ro cao nên lãi suất cho vay trung,
dài hạn thường cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Lãi suất cho vay trung, dài
hạn có thể là lãi suất cố định hoặc lãi suất quy định thay đổi theo mức lãi suất
thị trường. Việc quy định mức lãi suất cụ thể của từng ngân hàng có thể dựa
vào mức lãi suất cơ bản do NHNN công bố hoặc mức lãi suất của một số thị
trường liên ngân hàng quan trọng.
c, Về kì hạn trả nợ: thời gian hoàn vốn của các khoản vay trung, dài hạn
là rất chậm. Nguồn hoàn trả tiền vay của các doanh nghiệp chủ yếu được lấy
từ quỹ khấu hao và một phần từ lợi nhuận chính của dự án mang lại. Để giảm
mức độ rủi ro của loại hình cho vay này, các NHTM thường thông qua việc
tạo ra một kì hạn trả nợ hợp lí. Thông thường thì nợ trung, dài hạn được hoàn
trả theo hình thức phân kì, ở mỗi kì trả nợ người vay sẽ trả một khoản nhất
định: có thể theo niên kim cố định hoặc theo niên kim không cố định. Tất cả
các yếu tố như: thời hạn cho vay , kì hạn trả nợ, số tiền trả nợ từng kì đều
đựơc xác định theo tính chất của khoản vay, khả năng chu chuyển vốn vay
phù hợp với chu kì sản xuất kinh doanh, nguồn vốn của khách hàng và được
ghi rõ ràng trong hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ.
Khi sử dụng vốn vay trung, dài hạn người vay phải tuân thủ theo nguyên
tắc sử dụng vốn đúng mục đích:
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
10
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
Khi muốn vay vốn trung, dài hạn thì người vay phải soạn thảo dự án, kế
hoạch kinh doanh của mình. Đó là cơ sở để người vay phân bổ vốn hợp lý cho
các khoản mục từ đó ngân hàng có thể thẩm định khả năng trả nợ của người
vay và tiến hành cho vay. Các khoản mục sử dụng vốn vay trung và dài hạn
có thể bao gồm: Chi phí thuê mua đất làm mặt bằng sản xuất, chi phí xây
dựng nhà xưởng, chi phí hình thành tài sản cố định … và một phần đầu tư vào
tài sản lưu động ròng.
Các dự án, chương trình kinh doanh xin vay vốn phải nằm trong chương
trình phát triển kinh tế chung của địa phương, của vùng, của Nhà nước và các
dự án đó phải được các cơ quan có thẩm quyền thẩm định và cho phép thực
hiện. Biết trước được mục đích sử dụng vốn của người vay giúp ngân hàng có
thể lượng hoá được mức độ rủi ro và có các biện pháp xử lý kịp thời. Bên
cạnh đó, ngân hàng cũng cần kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn của khách
hàng để đảm bảo nó được thực hiên đúng như những thoả thuận ghi trong hợp
đồng tín dụng và không trái với các quy định pháp luật hiện hành.
d, Dự án vay vốn vay trung, dài hạn có hiệu quả kinh tế - xã hội cao:
Một dự án , kế hoạch kinh doanh muốn được vay vốn để thực hiện thì nó
phải có hiệu quả kinh tế - xã hội cao, những dự án có hiệu quả thấp không
được phép vay vốn vì nó sẽ dẫn đến sự hoàn trả vốn khó khăn và gây ra hậu
quả xấu cho nền kinh tế và có thể không được phép thực hiện.
Hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án là một tiêu chí quan trọng để thẩm
định dự án vay vốn, nó cho phép dự báo nguồn trả nợ trong tương lai do dự án
đem lại và những đóng góp củaviệc thực hiện dự án vào sự phát triển kinh tế
và giải quyết những vấn đề xã hội như: tạo việc làm và tăng thu nhập cho
người lao động …
e, Việc sử dụng vốn vay trung, dài hạn phải tuân theo kì hạn đã thỏa
thuận:
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
11
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
Theo quy định hiện hành, nguồn vốn vay trung, dài hạn là nguồn vốn vay
có kì hạn từ 12 tháng trở lên. Kì hạn cụ thể của từng khoản vay sẽ do khách
hàng và ngân hàng thoả thuận và được ghi trong hợp đồng tín dụng. Sở dĩ
phải có kì hạn cụ thể cho từng khoản vay là do nguồn huy động của ngân
hàng là có kì hạn, khi đến hạn ngân hàng phải hoàn trả cho người gửi thậm
chí phải trả ở bất kì thời điểm nào nếu người gửi yêu cầu. Mặt khác, xác định
rõ kì hạn cho vay trung, dài hạn nhằm giảm thiểu rủi ro mất vốn, rủi ro nợ xấu
cho các ngân hàng.
1.2.1.3 Các điều kiện vay vốn trung và dài hạn
NHTM cho vay trung, dài hạn đối với các doanh nghiệp chủ yếu là để tài
trợ cho đầu tư đổi mới, hiện đại hoá máy móc, trang thiết bị, thực hiện sản
xuất kinh doanh mới …
Do đặc điểm cho vay trung, dài hạn là vốn vay lớn, thời gian vay kéo
dài vì vậy mức độ rủi ro cao nên các NHTM hết sức thận trọng khi cho
vay. Một số yếu tố chủ yếu mà các NHTM thường xem xét khi cho vay
trung, dài hạn là:
a. Năng lực tài chính của khách hàng, hiệu quả của dự án đầu tư:
Năng lực tài chính hiện tại của khách hàng là một trong những yếu tố sẽ
quyết định tới khả năng trả nợ của khách hàng, vì vậy ngân hàng thường yên
tâm hơn khi cho các khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh vay vốn. Năng
lực tài chính của một khách hàng, cụ thể là một doanh nghiệp được thể hiện
qua bốn chỉ tiêu chủ yếu: khả năng thanh toán, quy mô và cơ cấu vốn, khả
năng hoạt động, khả năng sinh lời, … Thông qua việc phân tích các yếu tố
này, ngân hàng sẽ có cái nhìn tổng quát về tình hình tài chính của doanh
nghiệp từ đó làm cơ sở quan trọng cho việc ra phán quyết cho vay.
Yếu tố quan trọng nhất khi cho vay theo dự án đó là hiệu quả về mặt tài
chính của dự án hay khả năng sinh lời của dự án vì nguồn trả nợ khi cho vay
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
12
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
theo dự án bao gồm trích khấu hao và lợi nhuận hàng năm của dự án. Căn cứ
vào việc phân tích khả năng tiêu thụ của sản phẩm trên thị trường, công suất
thiết kế của tài sản cố định, thời gian thực hiện dự án, … nhà đầu tư sẽ tính toán
dòng tiền vào, ra thu nhập ròng của dự án làm cơ sở để tính toán hiệu quả về
mặt tài chính của dự án. Hiệu quả tài chính của dự án là một chỉ tiêu rất khó dự
đoán chính xác mà phải đến khi hoàn thành dự án mới đánh giá chính xác
được. Tuy nhiên, hiệu quả của dự án đựơc đánh giá mang tính dự báo thông qua
hệ thống các chỉ tiêu: Giá trị hiện tại ròng (NPV), tỉ suất hoàn vốn nội bộ (IRR),
thởi gian hoàn vốn đầu tư (PP) … Trong các chỉ tiêu trên, chỉ tiêu NPV là toàn
diện và được sử dụng nhiều nhất. NPV là giá trị hiện tại ròng, là số chênh lệch
giữa giá trị hiện tại của các luồng tiền thu với giá trị hiện tại của các khoản đầu
tư. Một dự án được đánh giá là có hiệu quả nếu NPV > 0.
Chỉ tiêu tỉ suất hoàn vốn nội bộ (IRR) cũng là một chỉ tiêu thường được
dùng khi thẩm định dự án. IRR cho biết tỷ lệ sinh lời hàng năm trên một đồng
vốn bỏ đầu tư bỏ ra có được từ việc đầu tư vào dự án hay nói cách khác IRR
cho biết lợi nhuận tương đối của dự án, IRR là mức lãi suất mà tại đó giá trị
hiện tại ròng NPV=0. Một dự án được lựa chọn để đầu tư khi có tỉ suất hoàn
vốn nội bộ lớn hơn lãi suất chiết khấu.
Bên cạnh việc sử dụng chỉ tiêu NPV và IRR, khi đánh giá hiệu quả của
một dự án người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu khác như: thời gian hoàn vốn,
chỉ số doanh lợi và phân tích điểm hoà vốn, … Hiện nay, một trong những
phương pháp được sử dụng phổ biến khi đánh giá hiệu quả của dự án đó là
phương pháp phân tích độ nhạy trên cơ sở lượng hoá mức độ rủi ro của dự án,
từ đó lượng hoá được sự thay đổi của các dòng tiền thu trong tương lai và
lượng hoá được sự thay đổi của các chỉ tiêu NPV, IRR. Có nhiều yếu tố ảnh
hưởng tới dòng tiền của dự án. Theo phương pháp phân tích độ nhạy, các yếu
tố này được thiết lập trên cơ sở phân bố xác suất và tính kì vọng chứ không
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
13
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
thể biết chắc chắn được. Ví dụ, khi một biến quan trọng như: lượng hàng bán
ra thay đổi sẽ dẫn tới dòng tiền thu thay đổi và NPV, IRR cũng thay đổi theo.
Thực hiện phương pháp phân tích độ nhạy là chỉ ra chính xác các chỉ tiêu tài
chính thay đổi như thế nào khi các biến đầu vào như nguyên liệu và biến đầu
ra như lượng hàng tiêu thụ thay đổi. Khi áp dụng phương pháp này và phân
tích yếu tố nào là nhạy cảm với sự thay đổi của dòng tiền nhất, và dự kiến
mức xấu nhất, trung bình và tốt nhất có thể xảy ra để đánh giá hiệu quả của
dự án trong các trường hợp đó.
b. Về tài sản đảm bảo
Cho vay trung, dài hạn có mức độ rủi ro rất cao nên để đảm bảo có
nguồn thu nợ thứ hai khi mà nguồn thu nợ thứ nhất là nguồn thu nợ từ thu
nhập của dự án không đạt được thì các NHTM thường yêu cầu bên vay phải
có tài sản đảm bảo. Giá trị của tài sản đảm bảo phải được tính sát với giá thị
trường. Tài sản đảm bảo phải là những tài sản có giá trị không bị hao hụt theo
thời gian và không gian, giá trị của tài sản đảm bảo phải lớn hơn giá trị khoản
vay. Theo quy định thì các NHTM được phép cho vay tối đa bằng 75% giá trị
của tài sản đảm bảo.
c. Khả năng của bộ máy quản lí doanh nghiệp
Cho vay trung, dài hạn có mức độ rủi ro cao nên khi ngân hàng quyết
định cho doanh nghiệp vay tức là ngân hàng đã quyết định gắn bó hoạt động
của mình với doanh nghiệp. Vì vậy, bất cứ sự biến động nào của doanh
nghiệp đều có khả năng ảnh hưởng tới ngân hàng, cụ thể là khả năng trả nợ
cho ngân hàng. Một bộ máy quản lý điều hành công việc tốt, khả năng xoay
trở linh hoạt trước mọi tình huống sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạt động có
hiệu quả hơn và từ đó khả năng trả nợ cho ngân hàng cũng được đảm bảo.
Một điều quan trọng khác cần phải xem xét, đó là vị thế của doanh
nghiệp trên thị trường, khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác. Điều này
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét