Thứ Tư, 22 tháng 1, 2014

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng và phát triển thành phần kinh tế nhà nước

những kinh nghiệm có thể vận dụng vào quá trình đổi mới nâng cao hiệu quả
của thành phần kinh tế nhà nớc trong thời kỳ mới. Luận văn hoàn thành sẽ bổ
sung vào nguồn tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu giảng dạy ở các Nhà tr-
ờng trong quân đội
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: mở đầu, 2 chơng(4 tiết),kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục
Chơng 1
Chủ trơng và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng và
phát triển thành phần kinh tế Nhà nớc trong thời kỳ
đẩy mạnh công ngiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc
5
1.1. Chủ trơng của Đảng về xây dựng và phát triển thành phần kinh
tế nhà nớc
1.1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thành phần nhà n-
ớc và vai trò của thành phần kinh tế nhà nớc trong nền kinh tế thị kinh tế tr-
ờng định hớng xã hội chủ nghĩa.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận giải một cách khoa
học về tính tất yếu phải thay thế hình thái kinh tế t bản chủ nghĩa bằng hình thái
kinh tế xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ quan niệm duy vật lịch sử, các nhà sáng
lập học thuyết về phơng thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa đều cho rằng mọi sự
biến đổi của các chế độ xã hội trong lịch sử là sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
Quan điểm này xuất phát từ luận điểm: "Sản xuất và tiếp theo sau sản xuất là
trao đổi sản phẩm của sản xuất, là cơ sở của mọi chế độ xã hội, rằng trong
mỗi xã hội xuất hiện trong lịch sử, sự phân phối sản phẩm, và cùng với sự
phân phối ấy là sự phân chia xã hội thành giai cấp hoặc đẳng cấp đều đợc
quyết định ở chỗ. Ngời ta sản xuất cái gì, sản xuất bằng cách nào và cái đó đ-
ợc trao đổi nh thế nào, do đó phải tìm nguyên nhân của tất cả những biến đổi
xã hội và những đảo lộn chính trị không phải trong đầu óc của ngời ta, không
phải ở nhận thức ngày càng tăng thêm của ngời ta về chân lý vĩnh cửu và
chính nghĩa vĩnh cửu, mà là trong biến đổi của phơng thức sản xuất và phơng
thức trao đổi, cần phải tìm những nhân tố không phải trong triết học, mà là
trong kinh tế của thời đại tơng ứng" [17, 376]
Kế thừa và phát triển lý luận của Mác - Ăngghen trong thời đại mới,
Lênin đã chỉ ra tính tất yếu phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tức là
phải có giai đoạn chuyển tiếp nhằm cải biến những bộ phận tàn d của chế độ cũ
để lại để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, nền kinh tế tất yếu còn tồn tại nhiều "mảng", nhiều thành phần kinh tế và t-
ơng ứng với nó là nhiều hình thức sở hữu. Tuy nhiên, trong nền kinh tế nhiều
6
thành phần đó, thành phần kinh tế nhà nớc phải giữ vai trò chủ đạo nhằm định
hớng xã hội chủ nghĩa cho toàn bộ nền kinh tế. Bởi lẽ, khi nói tới thành phần
kinh tế nhà nớc là nói tới quan hệ sản xuất tiêu biểu cho chế độ đơng thời.
Trong điều kiện của nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì đó là hệ thống
các doanh nghiệp nhà nớc. Thành phần kinh tế nhà nớc đại diện cho phơng thức
sản xuất tiên tiến, phơng thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, trong đó t liệu sản xuất
thuộc sở hữu toàn dân. Lênin khẳng định: "Vô luận thế nào chúng ta cũng
không đợc quên cái mà chúng ta thờng nhìn thấy, quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa của công nhân trong các công xởng quốc doanh, mà công nhân tự mình
thu thập nhiên liệu, nguyên liệu và thực phẩm hoặc khi công nhân cố gắng
phân phối đúng đắn các sản phẩm công nghiệp cho nông dân vận chuyển
những thứ ấy đến tận nơi bằng phơng tiện giao thông đó. Chính là chủ nghĩa
xã hội" [16, 188]. Nh vậy, Lênin đã xem thành phần kinh tế nhà nớc nh là khu
vực kinh tế trong đó quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, quyền sở hữu thuộc về
ngời lao động. Họ là ngời tổ chức quản lý những t liệu sản xuất và phân phối
những sản phẩm làm ra, đây là điểm khác căn bản so với quan hệ sản xuất t bản
chủ nghĩa. Trong đó ngời công nhân bị bóc lột giá trị thặng d, chịu sự phân phối
sản phẩm bất bình đẳng của giai cấp t sản và hoàn toàn không có thực quyền
trong quan hệ sở hữu t liệu sản xuất và quản lý doanh nghiệp.
Trong chính sách kinh tế mới, Lênin đã chỉ rõ ở thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội còn tồn tại những mảng, những bộ phận của hai kết cấu của chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa t bản. Hai kết cấu đó tồn tại đan xen với nhau, trong
đó tất yếu còn tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Phân tích thực trạng nền
kinh tế nớc Nga lúc bấy giờ, Lênin chỉ ra thực thể kinh tế trong xã hội gồm các
thành phần kinh tế, đó là:
"1. Kinh tế nông dân kiểu gia trởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất
tự nhiên.
2. Sản xuất hàng hoá nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mì).
7
3. Chủ nghĩa t bản t nhân
4. Chủ nghĩa t bản nhà nớc
5. Chủ nghĩa xã hội" [15, 248]
Nh vậy, trong 5 thành phần kinh tế ở nớc Nga lúc bấy giờ, Lênin đã chỉ
ra thành phần kinh tế "chủ nghĩa xã hội" coi đó là "xơng sống" của nền kinh tế.
Tuy nhiên, do trình độ sản xuất còn thấp, nên phải sử dụng các hình thức quá độ
trung gian. Sự sắp xếp thứ tự các thành phần kinh tế của Lênin có chủ định và
hàm chứa ý nghĩa phơng pháp luận. Điều này phản ánh trình độ sản xuất, các
hình thức vận động sở hữu trong tiến trình lịch sử, từ thấp đến cao. Thứ tự đó
thể hiện mức độ gần gũi của các thành phần kinh tế khác so với thành phần kinh
tế xã hội chủ nghĩa. Trong một nớc tiểu nông, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải
trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, qua nhiều nấc thang quá độ, trung gian. Chủ
nghĩa t bản nhà nớc chính là nấc thang cụ thể đó. Từ kinh tế tiểu nông xuyên qua
chủ nghĩa t bản nhà nớc lên chủ nghĩa xã hội là t tởng nhất quán trong quan niệm
xây dựng chủ nghĩa xã hội của Lênin.
Quan điểm về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần cũng nh về thành phần
kinh tế nhà nớc của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đợc Đảng ta vận dụng sáng tạo
vào thực tiễn nớc ta.
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ơng khoá IV họp tháng 8 -
1979 mở đầu cho công cuộc đổi mới từng phần trong đó nêu lên quan điểm về
sử dụng cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể để phát
triển sản xuất. Duy trì các thành phần kinh tế, kết hợp ba lợi ích là tập thể, cá
nhân và xã hội, trong đó tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của thành phần
kinh tế quốc doanh.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đảng chủ trơng
thực hiện đờng lối đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, trong đó đổi mới
kinh tế làm trọng tâm, chuyển từ cơ cấu tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế
thị trờng, đồng thời thừa nhận nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa,
8
thừa nhận trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều thành
phần kinh tế. Đối với thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chỉ rõ
"trong những năm tới, trớc mắt, để tiến hành vững chắc công tác cải tạo xã
hội chủ nghĩa, phát huy tác dụng tích cực của cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần, điều quan trọng nhất là củng cố và phát triển kinh tế xã hôi chủ nghĩa,
trớc hết là làm cho kinh tế quốc doanh thật sự giữ vai trò chủ đạo, chi phối đ-
ợc các thành phần kinh tế khác" [2, 58]. "Kinh tế xã hội chủ nghĩa với khu
vực quốc doanh làm nòng cốt phải dành cho đợc vai trò quyết định trong nền
kinh tế quốc dân" [2, 59]. Thực hiện Nghị quyết của Đại hội VI, nhiều biện
pháp và chính sách đã đợc đề ra và từng bớc đợc cụ thể hoá. Vì vậy, nhận thức
về nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa từng bớc sáng rõ và hoàn
thiện hơn, đặc biệt về thành phần kinh tế nhà nớc và vai trò của thành phần kinh
tế nhà nớc trong nền kinh tế quốc dân.
Đến Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII (1/1994), Đảng ta đa ra
quan niệm về khu vực kinh tế nhà nớc: "Khu vực kinh tế nhà nớc hiện đang
nắm giữ các doanh nghiệp nhà nớc, trong các ngành sản xuất quan trọng nh
năng lợng, nhiên liệu, xi măng, thép, hoá chất, vận tải, đờng sắt; đờng biển, đ-
ờng không, ngoại thơng, môi trờng, một phần nội thơng, ngân hàng, tài chính,
dự trữ quốc gia và nhiều tài nguyên đất nớc đang giữ vai trò chi phối nền kinh
tế quốc dân" [3, 81]. Quan điểm trên đã khái quát đợc phạm vi, quy mô của
thành phần kinh tế nhà nớc, nắm giữ các ngành nghề quan trọng, các vị trí then
chốt của nền kinh tế, đó cũng là điều kiện để thực hiện vai trò chủ đạo, điều tiết
toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Tiếp tục thực hiện cơ chế kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa,
Đại hội VIII của Đảng khẳng định vị trí "xơng sống" của thành phần kinh tế nhà
nớc và coi đó là khu vực giữ vị trí quan trọng, chủ đạo. Đó là khu vực có khả
năng. "Làm đòn bẩy nhanh, tăng trởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã
hội, mở đờng, hớng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển" [4, 93].
9
Nh vậy, quan điểm của Đảng qua các kỳ Đại hội và Hội nghị Trung ơng khi
bàn về các thành phần kinh tế nói chung, thành phần kinh tế nhà nớc nói riêng có
thể đa ra các khái niệm nh sau:
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên cơ sở
chế độ sở hữu về t liệu sản xuất.
Mỗi chế độ sở hữu có một kiểu thành phần tơng ứng trong đó chế độ sở
hữu công cộng (toàn dân) là đặc trng của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Sự nhận định các thành phần kinh tế một cách cụ thể là cần thiết và có ý nghĩa
quan trọng để đề ra những chính sách kinh tế, chính trị - xã hội thích hợp với
từng thành phần kinh tế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì thế,
không thể thay thế việc phân định các thành phần kinh tế bằng việc phân định
theo các loại hình địa phơng hay theo quy mô doanh nghiệp. Thành phần kinh
tế tồn tại ở những hình thức tổ chức kinh tế nhất định. Căn cứ vào loại hình
quan hệ sản xuất mà trớc hết là tính chất sở hữu để xác định những tổ chức kinh
tế ấy thuộc thành phần kinh tế nào. Tổ chức kinh tế là những đơn vị, tổ chức có
t cách pháp nhân, có thực mà ở đó các thành phần kinh tế đợc thể hiện.
Qua 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đại hội VIII của Đảng khẳng
định, chúng ta đã hoàn thành chặng đờng đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Tạo tiền đề vững chắc để chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, xác định ở nớc ta có 5 thành
phần kinh tế là:
Kinh tế nhà nớc; kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã; kinh tế t bản
nhà nớc; kinh tế cá thể; kinh tế t bản t nhân. Trong đó Đảng ta đã nêu ra những
đặc trng cơ bản của từng thành phần kinh tế, có thể xem đó là khái niệm về từng
thành phần kinh tế. Đối với thành phần kinh tế nhà nớc đợc khái quát nh sau:
Kinh tế nhà nớc là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà
nớc; các tài nguyên quốc gia và tài sản thuộc sở hữu nhà nớc nh đất đai, hầm
mỏ, rừng, biển, ngân sách, các quỹ dự trữ, ngân hàng nhà nớc, hệ thống bảo
10
hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; phần vốn nhà nớc góp vào các doanh
nghiệp thuộc những thành phần kinh tế khác.
Nh vậy, đã có sự phân biệt rõ ràng giữa hai phạm trù kinh tế nhà nớc và
doanh nghiệp nhà nớc. Khi nói đến doanh nghiệp nhà nớc là nói đến một bộ
phận quan trọng cấu thành kinh tế nhà nớc, mang tính chất vi mô. Cụ thể là, các
xí nghiệp, công ty, tổng công ty nhà nớc Còn kinh tế nhà nớc rộng hơn doanh
nghiệp nhà nớc. Nói tới thành phần kinh tế nhà nớc là nói tới quan hệ sản xuất
tiêu biểu cho chế độ đơng thời, đề cập đến những của cải, tài sản thuộc sở hữu
nhà nớc. Thành phần kinh tế nhà nớc đợc cấu thành bởi hai bộ phận: doanh
nghiệp nhà nớc và kinh tế nhà nớc phi doanh nghiệp (ngân hàng quốc gia, đất
đai, các quỹ quốc gia )
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001), sau 15 năm
thực hiện đờng lối đổi mới, 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng,
tiếp tục khẳng định: nền kinh tế nớc ta là nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa. ở nớc ta còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, cụ thể là: kinh tế nhà
nớc; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế t bản t nhân; kinh tế t bản
nhà nớc; kinh tế có vốn đầu t của nớc ngoài. Trong đó khẳng định kinh tế nhà n-
ớc gồm 2 bộ phận: doanh nghiệp nhà nớc và kinh tế nhà nớc phi doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nhà nớc chia ra làm hai loại:
Một là: Loại hoạt động kinh doanh vì lợi ích, lợi nhuận
Hai là: Loại hoạt động công ích không vì lợi ích lợi nhuận. Đây là nét đặc
thù của thành phần kinh tế nhà nớc mà các thành phần kinh tế khác không có đ-
ợc, thể hiện vai trò to lớn, chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nớc trong nền
kinh tế quốc dân.
Khi nói về vai trò của thành phần kinh tế nhà nớc, C.Mác và F.Ăngghen
đã khẳng định: kinh tế nhà nớc có vai trò chủ đạo, hạn chế mặt tiêu cực, phát
huy mặt tích cực của nền kinh tế trong giai đoạn chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã
hội. Ra đời từ sự chín muồi của các tiền đề kinh tế - xã hội, đến lợt nó, sự ra đời
11
kinh tế nhà nớc lại thúc đẩy các điều kiện kinh tế - xã hội của xã hội mới phát
triển và hoàn thiện hơn. Và khi những điều kiện kinh tế xã hội phát triển đến
một trình độ nhất định, lại dẫn đến sự tự tiêu vong của Nhà nớc, lúc đó sở hữu
thuộc về công cộng, không còn tồn tại giai cấp, vì thế sự đa dạng các thành
phần kinh tế, tơng ứng với nó là các loại hình sở hữu cũng sẽ không còn. Lênin
khẳng định thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa là "xơng sống" của nền kinh tế,
"vô luận" thế nào cũng phải giữ vị trí hàng đầu để định hớng cho toàn bộ nền
kinh tế theo con đờng xã hội chủ nghĩa.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định: kinh tế nhà nớc giữ vai trò quyết định trong việc giữ vững định
hớng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất n-
ớc, nắm giữ các ngành kinh tế then chốt, chiến lợc của quốc gia, đồng thời
thành phần kinh tế nhà nớc còn là công cụ để Nhà nớc xã hội chủ nghĩa điều
tiết nền kinh tế vĩ mô, giải quyết các vấn đề dân sinh xã hội.
Thành phần kinh tế nhà nớc đại diện cho quan hệ sản xuất tiêu biểu cho
mọi chế độ đơng thời. ở Việt Nam là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, thông
qua khu vực doanh nghiệp nhà nớc mà Nhà nớc thực hiện sự can thiệp đối với
thị trờng và định hớng các thành phần khác. Những biện pháp tác động của
Chính phủ chỉ đạt hiệu quả nhất thông qua sử dụng thành phần kinh tế nhà nớc.
Vì vậy, tất yếu đây phải là thành phần kinh tế giữ vị trí then chốt trong toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Quan điểm của Đảng chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình
thực hiện cơ chế kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta, từ đó tơng ứng với mỗi thời
kỳ, đề ra những quan điểm cụ thể.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6-1996) xác định thành phần kinh tế nhà
nớc "mở đờng, hớng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển,
làm lực lợng vật chất để Nhà nớc thực hiện chức năng điều tiết kinh tế và
quản lý kinh tế vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới" [4, 93].
Thành phần kinh tế nhà nớc tồn tại nh một thực thể trong nền kinh tế thị
12
trờng. Nó giữ vai trò quan trọng trong việc cung ứng hàng hoá, dịch vụ công
cộng cho cộng đồng xã hội và là công cụ hữu hiệu để thực hiện công bằng xã
hội, quan tâm đến an ninh xã hội, lợi ích của nhân dân. Mục tiêu của Nhà nớc
xã hội chủ nghĩa là vì lợi ích chân chính của ngời lao động, phẩm giá con ngời,
tiến tới mục tiêu thoả mãn nhu cầu ngày càng tốt hơn về vật chất và tinh thần
của nhân dân. Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp, nhiều
hình thức sở hữu, lực lợng sản xuất cha phát triển cao đến mức có thể phân phối
theo nhu cầu. Vì vậy, thành phần kinh tế nhà nớc không chỉ giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác nhằm giải phóng sức sản
xuất, tạo nên năng suất lao động xã hội ngày càng cao, mà còn quan tâm thực
hiện các vấn đề về công bằng xã hội, lợi ích của nhân dân. Đó cũng chính là
mục tiêu của nhà nớc xã hội chủ nghĩa và chỉ riêng có ở thành phần kinh tế nhà
nớc. Đại hội lần thứ VIII của Đảng còn nhấn mạnh: thành phần kinh tế nhà nớc
còn phải đi đầu về nâng cao năng suất, chất lợng, hiệu quả, nhờ đó mà thúc đẩy
sự tăng trởng nhanh và bền vững của nền kinh tế quốc dân. Tăng cờng sức mạnh
vật chất cùng với kinh tế hợp tác (mà nòng cốt là hợp tác xã) dần dần trở thành
nền tảng của nền kinh tế quốc dân và chế độ xã hội mới. Kinh tế nhà nớc, nhất
là loại hình doanh nghiệp nhà nớc, tuy còn hạn chế mặt này hay mặt khác, song
thực tế cho thấy nó đã nắm giữ cơ sở vật chất chủ yếu, huyết mạch chính của
nền kinh tế quốc dân, nơi cung cấp nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nớc, nơi
tập trung phần lớn đội ngũ công nhân, cán bộ quản lý, cán bộ kinh tế, cán bộ kỹ
thuật của đất nớc. Tính đến năm 1998 "kinh tế nhà nớc chiếm tới 85% tài sản
cố định trong công nghiệp của cả nớc. Trong đó 100% mỏ khoáng sản lớn;
83% diện tích cây công nghiệp dài ngày; 93% lao động đào tạo"[10, 169]. Có
thể thấy tỷ trọng GDP của kinh tế nhà nớc chỉ 44% song lại đóng góp từ 30 -
35% cho ngân sách nhà nớc. Trong khi khu vực ngoài quốc doanh mặc dù
chiếm 56% GDP nhng chỉ đóng góp 25% cho ngân sách nhà nớc. Vì vậy, trong
tơng lai thành phần kinh tế nhà nớc vẫn là thành phần kinh tế chủ yếu của
13
nguồn thu quốc gia, là đòn bẩy để phát triển kinh tế - xã hội. Có thể nói rằng:
"Điều quan trọng là bên cạnh "chiếc cầu nhỏ" của chủ nghĩa xã hội, cần củng
cố, tăng cờng vai trò chủ đạo then chốt của kinh tế quốc doanh, vai trò nền
tảng của kinh tế quốc dân và kinh tế hợp tác, lấy đó làm chỗ dựa cơ bản, làm
"quả đấm thép" để phát triển kinh tế xã hội. Đó mới là điều mấu chốt và
quyết định bảo đảm định hớng xã hội chủ nghĩa" [21, 21-22]. Nhng điều này
chỉ có thể thực hiện đợc thông qua sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý và điều
hành của Nhà nớc.
Bên cạnh những doanh nghiệp nhà nớc thu lợi nhuận, Nhà nớc với vai trò
quản lý của mình còn thành lập các doanh nghiệp công ích không vì mục tiêu
lợi nhuận, đây là điểm khác biệt so với các thành phần kinh tế khác. Mục đích
của các doanh nghiệp này là làm tốt các dịch vụ công cộng, thực hiện chính
sách xã hội, phục vụ công tác an ninh - quốc phòng Rõ ràng, nếu thiếu các
doanh nghiệp nhà nớc loại này thì xã hội khó tồn tại và phát triển. Đây cũng
chính là lực lợng vật chất để Nhà nớc thực hiện chính sách xã hội, giải quyết
các vấn đề xã hội, phục vụ cho công tác an ninh - quốc phòng và hớng dẫn các
thành phần kinh tế khác cùng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội.
Dựa vào thành phần kinh tế nhà nớc, bằng các chính sách cụ thể, Nhà nớc
hớng dẫn các thành phần kinh tế khác cùng đầu t vào khu vực nông thôn để xây
dựng, phát triển kết cấu hạ tầng ở nông thôn, đặc biệt là thuỷ lợi và giao thông.
Đồng thời Nhà nớc giúp đỡ các doanh nghiệp ở nông thôn đào tạo, bồi dỡng tay
nghề, khả năng quản lý, công nghệ, vốn cho ngời lao động, có nh vậy mới bảo
đảm định hớng xã hội chủ nghĩa trên thực tế ở nông thôn.
Nh vậy, trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và trong suốt quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, doanh nghiệp nhà nớc luôn
giữ vai trò chủ đạo và ngày càng đợc phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, cả về
số lợng và chất lợng. Chỉ bằng cách đó, mới tạo ra tiền đề kinh tế cho định hớng
xã hội chủ nghĩa, mới là cơ sở, là nền tảng của chế độ mới. ở nớc ta trong thời
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét