Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014

trách nhiệm bồi thường thiệt hại và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đối với hành vi xâm phạm đến tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của các cá nhân và tổ
chức khác.
Theo Khoản 1 Điều 604 BLDS quy định về căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại và Nghị quyết số 03/2006 / HDTP – TANDTC
ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát
sinh khi có các điều kiện: có thiệt hại xảy ra; có hành vi trái pháp luật gây
thiệt hại; có mỗi quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại
xảy ra; có lỗi của người gây thiệt hại. Như vậy, theo quy định của pháp
luật dân sự thì lỗi được coi là một trong những điều kiện phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại là điều kiện quan trọng trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng nói riêng bởi mục đích của trách nhiệm bồi thường thiệt
hại là nhằm bù đắp, khắc phục những tổn thất đã xảy ra cho người bị thiệt
hại, do đó nếu không có thiệt hại thì cũng không phát sinh trách nhiệm bồi
thường. Theo đó, khoản 1 Điều 307 BLDS quy định: “Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất,
trách nhiệm bồi thường bù đắp tổ thất về tình thần” Như vậy, thiệt hại
được xác định bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.
Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: Hành vi trái pháp
luật gây thiệt hại để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hiểu
là những hành vi mà pháp luật cấm, không cho phép thực hiện. Cơ sở để
xác định hành vi trái pháp luật là căn cứ vào các quy định của pháp luật
trong từng trường hợp cụ thể.
Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật:
Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì hành vi trái
5
pháp luật được coi là nguyên nhân và thiệt hại được coi là hậu quả. Về
mặt nguyên tắc, hành vi trái pháp luật phải có trước và thiệt hại có sau.
II. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1. Khái niệm về lỗi và ý nghĩa của yếu tố lỗi trong việc xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Lỗi hiểu theo góc độ luật học, từ xưa đến nay có nhiều học giả,
trong đó có các luật gia đã quan tâm nhận xét rất khác nhau trong việc xác
định yếu tố lỗi trong trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng nói riêng.
Trong phạm vi bài viết này, lỗi được thống nhất hiểu là là trạng thái
tâm lý của con người có thể làm chủ, nhận thức được hành vi của mình và
hậu quả do hành vi đó mang lại. Việc đánh giá hình thức, mức độ lỗi trong
trách nhiệm dân sự nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng nói riêng khác với trách nhiệm hình sự. Trong trách nhiệm hình sự,
hình thức và mức độ lỗi có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định tội danh
và quyết định hình phạt. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định
kẻ phạm tội có lỗi trong việc thực hiện hành vi phạm tội. Trong khi đó,
đối với trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại vấn đề hình thức lỗi và mức độ
lỗi ảnh hưởng rất ít đến việc xác định trách nhiệm. Về nguyên tắc, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi người gây thiệt hại có lỗi, bất kể
lỗi đó là lỗi cố ý hay lỗi vô ý.
Xung quanh vấn đề lỗi, một câu hỏi thường được đặt ra đó là: Mọi
trường hợp trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng đều tiên niệm có sự thiệt
hại, nhưng có phải mọi sự thiệt hại có đều phát sinh trách nhiệm không?
Hay sự thiệt hại đó còn cần phải do một lỗi gây ra? Về vấn đề này có hai
quan điểm: một quan điểm cố điển cho rằng phải có lỗi mới có trách
nhiệm, một quan điểm khác lại chủ trương trách nhiệm khách quan không
cần điều kiện lỗi.
6
Khuynh hướng cổ điển đặt căn bản của trách nhiệm dân sự ngoài
hợp đồng trên ý niệm lỗi của người gây ra thiệt hại cho người khác. Theo
đó, lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà gây thiệt hại, xâm phạm đến
quyền lợi hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Cơ sở để
người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường là họ phải chứng minh lỗi của người
gây thiệt hại.
Đây cũng là quan điểm của Điều 604 BLDS: “Người nào do lỗi cố
ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh
dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì
phải bồi thường”
Giá trị của khuynh hướng cổ điển khi đặt trách nhiệm trên nền tảng
lỗi là đã xác định phạm vi của tự do cá nhân: mọi người trong xã hội đều
được tự do hoạt động, sự tự do ấy chỉ bị giới hạn bởi quyền lợi của người
khác; vậy chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Song
trong tình trạng kinh tế xã hội ngày nay, khuynh hướng cổ điển nhiều khi
tỏ ra chật hẹp và không che chở được một cách có hiệu quả quyền lợi cho
nạn nhân trong khi việc bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại là một
đòi hỏi cấp thiết và chính đáng. Thực vậy, trong trường hợp thiệt hại xảy
ra mà không có ai chứng kiến, hoặc xảy ra mà không do lỗi của ai cả, nếu
buộc nạn nhân phải dẫn chứng lỗi, tức là gián tiếp bác bỏ quyền đòi bồi
thường của nạn nhân. Ngoài ra khuynh hướng cổ điển cũng không giải
thích được trách nhiệm của người chưa thành niên và người mất năng lực
hành vi về các thiệt hại do họ gây ra.
Khuynh hướng thứ hai đó là khuynh hướng chủ trương trách nhiệm
khách quan, không cần điều kiện lỗi. Khuynh hướng này đặt ra trách
nhiệm khách quan cho người gây ra thiệt hại, do đó, trong mọi trường hợp,
7
người này đều phải chịu trách nhiệm bồi thường. Khuynh hướng này cũng
không thỏa đáng vì bảo đảm sự bồi thường cho nạn nhân trong mọi trường
hợp không hẳn là một giải pháp ích lợi cho xã hội. Trên lập trường lợi ích
công cộng còn phải quan tâm đến quyền tự do hoạt động của cá nhân, nếu
thừa nhận sự bồi thường mà không đòi hỏi lỗi, mọi sự hoạt động của cá
nhận sẽ bị tê liệt vì ai nấy đều không khỏi e sợ gây thiệt hại phải bồi
thường mặc dầu không phạm lỗi.
Từ những lập luận trên, cùng với thực tế cho thấy các tai nạn mang
tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con
người ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của công nghiệp hóa, cơ
giới hóa, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của con
người, để bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ nạn nhân Bộ luật dân sự Việt
Nam được xây dựng trên cơ sở dung hòa cả hai khuynh hướng trên. Bên
cạnh những điều khoản quy định yếu tố lỗi là một trong những điều kiện
bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
BLDS Việt Nam cũng áp dụng chế độ trách nhiệm khách quan đối với các
thiệt hại do tác động của các phương tiện cơ giới, của súc vật và vật vô tri
thức khác. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong một số trường
hợp có thể phát sinh mà không cần điều kiện lỗi. Ví dụ tại Khoản 3 Điều
627 quy định là: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không
có lỗi”. Hoặc Điều 624 quy định: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể
khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không
có lỗi.”
Khi xác định lỗi trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải
phân biệt với những hành vi gây thiệt hại khác, không thuộc hành vi do lỗi
cố ý hoặc vô ý gây ra. Đó là hành vi gây thiệt hại được xác định là sự kiện
bất ngờ. Sự kiện bất ngờ được qui định tại Điều 11 Bộ luật Hình sự của
8
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được dẫn chiếu vì điều luật
này không những được áp dụng trong lĩnh vực luật hình sự, mà còn có ý
nghĩa trực tiếp trong việc xác định trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại
ngoài hợp đồng. Sự kiện bất ngờ được hiểu là sự kiện pháp lý nhưng hậu
quả của nó không làm phát sinh trách nhiệm dân sự của người có hành vi
tạo ra sự kiện đó. Đối với sự kiện bất ngờ thì người gây thiệt hại cũng
không bị coi là có lỗi vì họ không thể thấy trước, không buộc phải thấy
trước hậu quả xảy ra do hành vi của mình, vì ở đây họ không có đủ điều
kiện để lựa chọn tránh sự thiệt hại. Sự kiện bất ngờ được hiểu là sự kiện
pháp lý nhưng hậu quả của nó không làm phát sinh trách nhiệm dân sự của
người có hành vi tạo ra sự kiện đó.
Ngoài ra, đối với người tâm thần, người chưa thành niên dưới 15
tuổi, hoặc người bị người khác cố ý dùng chất kích thích làm cho mất khả
năng nhận thức, không điều khiển được hành vi của mình, khi họ có hành
vi trái pháp luật mà gây thiệt hại thì cũng không bị coi là có lỗi, từ đó họ
cũng không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp
này, lỗi được xem xét là lỗi của người quản lý người gây thiệt hại hoặc lỗi
của người đã cố ý dùng chất kích thích làm người khác mất năng lực hành
vi dẫn tới gây thiệt hại.
2. Hành vi có lỗi và phân biệt hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý
Hành vi có lỗi, theo quy định tại Điều 308 BLDS thì "Người không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự, thì phải chịu trách
nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác: Khoản 1 Điều 308 nói trên quy
định lỗi do hành vi không thực hiện nghĩa vụ dân sự thì người có hành vi
đó bị coi là có lỗi. Theo quy định của khoản 2 Điều 308 BLDS thì nội
dung của khoản này có ý nghĩa viện dẫn trực tiếp trong việc xác định trách
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.
9
2.1 Về lỗi cố ý
Khoản 2 Điều 308 BLDS quy định: “Cố ý gây thiệt hại là trường
hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người
khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để
mặc cho thiệt hại xảy ra”.
Về mặt khách quan, quy định trên đã dự liệu trường hợp người gây
thiệt hại nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà
vấn thực hiện, cho dù người đó mong muốn hoặc không mong muốn
nhưng đã có thái độ để mặc cho thiệt hại xảy ra thì người đó phải chịu
trách nhiệm dân sự về hành vi có lỗi cố ý của mình.
Về măt chủ quan, người gây thiệt hại khi thực hiện hành vi gây hại
luôn nhằm mục đích có thiệt hại xảy ra cho người khác và được thể hiện
dưới hai mức độ:
Mong muốn có thiệt hại xảy ra.
Không mong muốn có thiệt hại, nhưng lại để mặc cho thiệt hại xảy
ra.
Mức độ thể hiện ý chí- hành vi của người cố ý gây thiệt hại trong
trường hợp người đó nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho
người khác mà vẫn thực hiện, thì phải chịu trách nhiệm dân sự do lỗi cố ý
là nguyên nhân của thiệt hai.
2.2 Về lỗi vô ý
Khoản 2 Điều 308 BLDS quy định: “Vô ý gây thiệt hại là trường
hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt
hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy
trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại
sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.” Như vậy, lỗi vô ý biểu hiện
ở việc người gây thiệt hại không thấy trước hành vi của mình có khả năng
gây ra thiệt hại mặc dù phải thấy trước mà vẫn thực hiện hành vi ấy vì cho
rằng hậu quả đó không thể xảy ra. Ví dụ: A có một vườn cây cạnh nhà B
10
một hôm A chặt cây gỗ to để bán. Khi làm việc này, A biết là rất nguy
hiểm vì cây gỗ có thể đổ vào nhà B. Nhưng A cho rằng mình có thể chặt
cây đổ về phía vườn nhà. Kết quả cây gỗ đó đã đổ vào nhà ông B.
Đối với lỗi vô ý, tùy theo mức độ trầm trọng của nó, cũng có thể
phân chia thành lỗi nặng, lỗi nhẹ, lỗi rất nhẹ như trong trường hợp trách
nhiệm hợp đồng, nhưng đối với trách nhiệm ngoài hợp đồng, sự phân biệt
này không có lợi ích gì trên thực tế, vì trên nguyên tắc một lỗi rất nhẹ
cũng đủ để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Lỗi vô ý hay lỗi cố ý cần được xem xét trên các căn cứ như thời
gian, địa điểm, điều kiện, diễn biến của sự việc, căn cứ vào sự hiểu biết xã
hội, nghiệp vụ chuyên môn của người có hành vi gây thiệt hại từ đó kết
luận người gây thiệt hại có nhận thức được hành vi của mình hay không
và buộc phải nhận thức được hay không. Khác với cách giải quyết trong
trách nhiệm hình sự dù đối với lỗi vô ý hay lỗi cố ý thì người gây thiệt hại
vẫn phải chịu trách nhiệm dân sự. Trong trách nhiệm hình sự lỗi vô ý gây
thiệt hại nhỏ thì không phải truy cứu trách nhiệm hình sự, còn trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì không vì sự cố ý hay vô ý
của người gây thiệt hại mà xét họ có phải bồi thường hay không hoặc là
xét ở mức độ tăng hay giảm mà ở đây chỉ xem xét mức độ giảm bồi
thường được quy định ở khoản 2 Điều 605 BLDS.
Về ý nghĩa của việc phân biệt hai hình thức lỗi: ta nhận thấy rằng,
mặc dù Điều 308 BLDS chia “lỗi” thành hai hình thức - lỗi cố ý và lỗi vô
ý nhưng hầu như ý nghĩa của sự phân chia này không được thể hiện trong
các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trừ Điều 615 có nhắc
đến lỗi cố ý của người dùng rượu hoặc các chất kích thích khác làm cho
người khác lầm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và điều khiển hành
vi của mình mà gây thiệt hại là căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại. Tuy nhiên đối với mọi trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng được quy định cụ thể tại BLDS, việc phân định lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý
11
ảnh hưởng đến mức bồi thường được quy định tại khoản 2 Điều 605, trong
đó coi yếu tố lỗi vô ý là căn cứ giảm mức bồi thường khi người có hành vi
trái pháp luật gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắc và
lâu dài của mình. Như vậy, trừ trường hợp quy định tại Điều 615, việc
phân biệt lỗi cố ý và lỗi vô ý không có ý nghĩa trong việc xác định hoặc
loại trừ trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại.
III. Thực tiễn và việc áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành
về lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và nhận
xét
1. Một số vụ việc thực tế áp dụng quy định của pháp luật về việc xác
định lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1.1 Vụ việc thứ nhất
A, N, P và T là công nhân của công ty X có mâu thuẫn sâu sắc với
B. Một buổi tối, A, N, P và T đến nhà riêng của B để đánh. Khi gặp B và
H (bạn Bình) đi chơi về, bọn A, N, P và T chặn đường gây sự. H can ngăn
nhưng bọn chúng không nghe T rút dao đâm H một nhát và sau đó cả bốn
tên xông vào đấm đá B. B bị đánh bất ngờ, ngã xuống đất và kêu la, sau
đó B cố gượng dậy, tay trái xách dép vừa chạy vừa kêu cứu. A và đồng
bọn tiếp tục đuổi theo. B chạy được khoảng 50 mét nữa thì bị vấp ngã. A,
N, và P xông vào đấm đá B. T dùng dao mang theo chém nhiều nhát vào
đầu và người B không chống đỡ nổi bị ngất xỉu tại chỗ. Bà con xung
quanh chạy vào can và giải tán đám ẩu đả và đưa B đến bệnh viện cấp
cứu.
Hậu quả của vụ án được xác định như sau: Biên bản giám định pháp
y số 80/GĐPY-TT ngày 03/10/1997 kết luận B bị thương với tỷ lệ thương
tật là 9,86%. T đánh H bị thương, theo biên bảo giảm định pháp y thương
tật số 95/GĐPY-TT kết luận H tỉ lệ thương tích là 6%.
Căn cứ vào Điều 604 và Điều 609 BLDS nước Công hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam:
12
Theo điều 604 BLDS 2005: căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại:
“1 người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của
cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể
khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
1. trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại thì phải bồi
thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.”
Căn cứ theo điều 609 BLDS 2005: về thiệt hại do sức khỏe bị xâm
phạm.
Tòa án đã quyết định giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
như sau: buộc các bị cáo A, N, P và T phải liên đới thực hiện nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại về sức khỏe cho B. Trong đó, căn cứ vào mức độ lỗi của
từng người mà tòa án quy định quy định cụ thể: A phải bồi thường số tiền
là 710.000đ; N phải bồi thường 880.000đ; P phải bồi thường 790.000đ; T
phải bồi thường 960.000đ. Ngoài ra, Tòa án cũng yêu cầu T phải bồi
thường cho H số tiền là 780.000đ.
Từ những tình tiết của vụ án, có thể nhận thấy hành vi đánh B của
A, N, P và T là những hành vi gây thiệt hại hoàn toàn với lỗi cố ý của
những người này. Tức là những người này nhận thức rõ hành vi của mình
sẽ gây thiệt hại về sức khỏe cho người khác nhưng do thù hận cá nhân mà
vẫn thực hiện thực hiện hành vi và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Vì vậy
xác định trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại của A, N, P và T là hoàn
toàn hợp lý; việc tòa án phân chia từng phần nghĩa vụ mà mỗi người này
phải thực hiện không làm mất đi bản chất liên đới giữa những người này.
Tuy nhiên, qua vụ án trên ta cũng nhận thấy việc xác định lỗi để xác
định mức bồi thường cho từng bị cáo là rất phức tạp. Việc xác định mức
bồi thường về dân sự như bản án đã tuyên chỉ là suy đoán về lỗi để xác
định mức bồi thường mà chưa có những căn cứ và cơ sở pháp lý chặt chẽ
13
để xác định mức bồi thường. Ta thấy tại sao A, N, P và T đều dùng tay,
chân để đánh B, cùng tham gia từ đầu đến cuối, cùng gây ra thương tích
cho B nhưng mức bồi thường xác định cho mỗi bị cáo lại khác nhau? Đây
là một câu hỏi cần được giải đáp và cần những văn bản dưới luật hướng
dẫn đường lỗi xét xử một cách chặt chẽ hơn.
1.2 Vụ việc thứ hai
N là lái xe làm hợp đồng cho công ty du lich X. N là lái xe du lịch
và đã lái xe 20 năm. Một lần khi đang xuống đèo, thấy một ô tô xuất hiện
ở chiều ngược lại, theo quán tính, N giảm ga, “rà phanh” để giảm tốc độ,
nhưng không ngờ xe bị mất phanh. N giật phanh tay, khoá máy, cuối cùng
là về số để giảm tốc độ nhưng mới về đến số 3 thì xe đã rời khỏi mép
đường và lao xuống vực. N cho biết, chiếc xe bị tai nạn hiệu Isuzu còn
mới, trước khi khởi hành N đã kiểm tra kỹ chiếc xe và trong hành trình
trước khi bị tai nạn xe không có trục trặc kỹ thuật. Tai nạn làm chết 10
người, nhiều người bị thương, xe ô tô hỏng toàn bộ.
Trong tình huống này, thiệt hại do tự bản thân hoạt động của chiếc
xe gây ra. N không có lỗi trong việc điều khiển vì tình huống quá bất ngờ,
nằm ngoài sự kiểm soát của N. Theo Điều 623 BLDS 2005 xe ô tô là
phương tiện giao thông vận tải cơ giới – là nguồn nguy hiểm cao độ.
Trong trường hợp này, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Theo Điều 623 BLDS 2005 và Nghị quyết Hội đồng thẩm phán tòa
án nhân dân tối cao số 03/2006/ NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 Hướng dẫn
áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người
khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có
thoả thuận khác. Trong trường hợp trên, N là người đang trực tiếp chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nhiệm vụ do Công ty X giao
cho. Công ty X vẫn đang nắm giữ, quản lý, khai thác, hưởng công dụng,
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét