Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

Cái đẹp trong văn hóa mặc của dân tộc Việt qua các thời kỳ lịch sử

Cái đẹp trong văn hóa mặc của dân tộc Việt Qua các thời kỳ lịch sử

Trang phục là một nhu cầu thiết yếu trong đồi sống con người. Nó
quan hệ đến nhiều lĩnh vực trong xã hội như địa lý, lịch sử, kinh tế, lễ
giáo, đẳng cấp, phong tục tập qn v.v Nhất là ở lĩnh vực văn hóa tinh
thần nó thể hiện cụ thể rõ nét về trình độ và thị hiếu them mỹ của mỗi con
người, mỗi dân tộc, mỗi thời đại
Quả thật trang phục (là kiểu cách quần áo, mũ, khăn, giầy dép, đồ
trang sức ), có tầm ảnh hưởng rất lớn tới đời sống con người - các mối
quan hệ xã hội thị hiếu them mỹ, đời sống tinh thần của con người Việt
Nam.
Ơng cha ta đã từng dạy rằng:
“Hơn nhau tấm áo manh quần
Thả ra bóc trần ai cũng như ai.
Đó là bằng “con mắt trang phục”, và xét ở góc độ bình đẳng của cogt.
Nhưng thực tế phũ phàng ta cho cho ta thấy, trong xã hội cũ, chỉ vì “cái áo,
manh quần “ấy” mà biết bao người lao động nghèo đã phải đau khổ lên tiếng.
“Cha đì cái áo cách này
Mất chúng mất bạn vì mày áo ơi”
Nhưng nếu chỉ nhìn nhận cái áo, cái quần ở góc độ là những vật che
thân đơn thuần thì tức là chỉ nhìn bằng con mắt thực dụng. Bởi nó còn
mang những ý nghĩa sâu sắc về mặt văn hóa xã hội, về xu hướng thẩm
mỹ, của từng dân tộc, của từng con người lịch sử cho thấy đã bao lần
qn xâm lược phương Bắc xâm lược nước ta, và cố gắng bằng mọi cách
đề đồng hóa lối sống, phong tục của dân ta, bắt dân ta ăn mặc theo kiểu
phương Bắc nhưng đã gặp phải sự đấu tranh mãnh liệt của dân ta để bảo
vệ đất nước, bảo vệ phong tục cổ truyền.
“Đánh cho để dài tóc
đánh cho để răng đen”
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

1
Vì vậy trang phục (hay văn hóa mặc): khơng chỉ là vật để che thân
mà còn mang những ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa tinh thần dân tộc. Đó là vẻ
đẹp tinh túy của mỗi dân tộc, là bàn tay khéo léo, khối óc tinh tế của
người Việt xưa trong việc cố kết hợp trang phục, sự cách điệu tinh tế cho
trang phục của mình trở nên đẹp đẽ hơn để phù hợp đời sống xã hội hiện
đại.
Trong bài tiểu luận này, tơi muốn trình bày sâu vào vấn đề “Cái đẹp
trong văn hóa mặc của dân tộc Việt – qua các thời kỳ lịch sử”.
- Trang phục thời Hùng Vương
- Trang phục thời phong kiến
- Trang phục từ cách mạng tháng 8 đến nay.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

2
I. TRANG PHỤC THỜI HÙNG VƯƠNG
Cách đây khoảng 2500 – 2700 năm, thời đại Hùng Vương (với sự ra
đời của nhà nước đầu tiên – nhà nước Văn Lang – văn hóa đồng thau).
Người dân đã biết sinh sống, bằng săn bắn, trồng trọt biết rang gai, đay,
dâu, ni tằm, ươm tơ dệt vải khơng còn phải dùng vỏ cây làm quần áo
nữa).
Theo một số hiện vật còn gìn giữ và thu được ở một số di chỉ, và
theo nghiên cứu của các nhà văn hóa học – khảo cổ học trang phục thời
kỳ này khó phong phú.
Phụ nữ mặc áo ngắn đến bong, xẻ ngực, bó sát vào người, phía
trong mặc yếm kín ngực. Chiếc yếm có cổ tròn rất cổ, có trang trí hình
chấm hạt gạo. Cũng có những dạo áo cánh ngắn, cổ vơng, để hở một phần
vai và ngực hoặc kín ngực, hổ một phần vai và trên lưng. Trên áo có hoa
văn trang trí. Thắt lưng có 3 hàng chấm trang trí, cách điệu nhau, quấn
ngang bong, làm cho thân hình thêm tròn lẳn. Đầu và cuối thắt lưng thả
xống phía trước và sau người, tận cùng bằng những tua rua. Váy kín bó
sát sát vào thân cũn cỡn trang trí đẹp.
Đàn ơng đóng khố là một dải vải, ciều ngang khoảng 10cm (20cm
thì gập đơi lại), chiều dài khoảng 1,2m hoặc dài hơn. Tùy theo chiều dài
của khổ, người ta quấn thành một hoặc nhiều vòng quanh bong, thả đi
khố về phía sau hoặc phía trước. Đàn ơng Đơng Sơn thường cởi trần.
Đàn ơng và đàn bà đều búi tóc tròn sau gáy. Một hình thức khác là
tóc búi ngược một phần lên đỉnh đầu, một phần thả ra sau lưng. Cũng có
thể cả nam và nữ đều xòa tóc sau lưng (nam thường xõa tóc kín cổ, nữ
thường xõa tóc sau lưng).
Qua quan sát trên trống đồng ta thấy: trong các hoạt động tập thể,
các ngày lễ hội người ta còn mặc những chiếc váy làm bằng lơng vũ, hoặc
bằng lá cây xòa ra rất đẹp, trên đầu họ là chiếc mũ cũng bằng lơng vũ có
trang trí thêm những bơng lau ở phía trước.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

3
Người dân thời kỳ này cũng đeo rất nhiều loại trang sức. Những
vòng đeo tai đa dạng: có loại đơn giản chỉ là một sợi dây đồng uốn tròn sơ
sài, hay được đúc lion, có loại vòng tròn có hang khóa. Đặc biệt là có
những vòng hoa tai gắn quả nhạc hay đơi hoa ai bằng đá, hình con thú.
Những chuỗi hạt thường thấy.
Gồm các loại hạt hình tru, trái xoan, hình cầu.
Ngồi ra còn có nhẫn bằng đồng đeo ở ngón tay có gắn quả nhạc.
Đàn ơng thường có tục săm mình (ban đầu với mục đích vẽ lên mình
để khi xuống nước nó khơng bị giao long hãm hại. Sau được nâng lên
thành hình thức trang điểm cho cơ thẻ). Đàn ơng đàn bà đều nhuộm răng
đen, và có tục ăn trầu.
Tuy rằng những trang phục thời kỳ nào còn đơn giản, đồ trang sức
còn tơ sớ, nhưng với điều kiện chế tác hạn chế, ta thấy được rằng; con
người thời khỳ bấy giờ đã có trình độ thẩm mỹ, óc tưởng tượng cao, đã
quan tâm nhiều tới vấn đề làm đẹp cho cơ thể, đồng thời khi thể hiện bàn
tay khéo léo cần căn cứ hoạt động.

THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

4
II. TRANG PHỤC CÁC THỜI PHONG KIẾN
1. Thời nhà Lý
Có nền kinh tế phát triển tạo điều kiện phát triển mọi mặt của đời
sống xã hội. Với ý thức dân tộc, nhà vua chủ trương dùng gấm vó trong
nước:
Năm 1059 Vua Lý Thánh Tơng định triều phục cho các quan vào
chầu vua các quan phải đi tất, đi hia, đội mũ phác đầu, mặc áo bào tía,
cầm hốt ngà, thắt đai da. Vu mặc áo màu vàng, quần tía, búi tóc, cài trâm
vàng.
Trang phục võ tướng thời Lý khá hồn chỉnh: mũ chùn kín tai, áo
dài đến đầu gối, cánh tay áo được may gọn gàng, chật, bó sát cổ tay, có
những mảnh giáp, hoặc diềm vải trang trí hình xoắn ốc hay hình bơng hao
nhiều cánh to ở trước ngực. Rất nhiều đường viên song song, hình cong
hoặc xoắn ốc, tiếp dưới là những quả nhạc nhỏ, hoặc những tua rủ rồi mới
đến hàng quả nhạc. Dây lưng bằng vải thì bng rủ hai đầu xuống phía
trước. Nếu là đai lưng bằng da thì sát vào bụng, đều làm nổi lên đường
nét khoẻ, đẹp cho cơ thể. Đơi hia ở dưới chân cao đến đầu gối và được
trang trí đơn giản.
Các vũ nữ, tóc thường búi cao lên đỉnh dầu, trên trán có một điểm
trang trí, cổ đeo những chuỗi hạt, mặc váy ngán có nhiều nếp.
Trang phục của nhân dân: thời kỳ này “q nửa người dân làm sư
sãi”. Tượng phật ADi Đà (từ năm 1057) còn lại tại chùa Phật Tích cho ta
thấy: tấm áo pháp khốc ngồi có đường cong, đường thẳng gấp khúc hay
bng rủ, rất sinh động. Nếp áo nổi lên như những đường gân của tấm lá
ren dính sát cơ thể. Khi đi dồn dập chảy si, chỗ thì vắt chéo mềm mại,
hay chạy vòng như sóng lượn, chỗ thì nhẹ nhàng, vài đường nằm ngang
cho thấy tấm áo vừa rộng, vừa gợi tả được độ mỏng và mịn của vải dù
tượng làm bằng đá.
Người dân cũng có tục săm mình, đàn bà đeo khun bạc vũ nữ
thường búi tóc xao và buộc diềm hoa trên đầu.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

5
2. Trang phục thời Trần
Đây là thời kỳ có nhiều loại vải mới. Vải bơng, vải gai, lụa lĩnh, sa,
the, nái, sồi, đoạn, gấm vóc,… Nghề thêu cũng phát triển.
Năm Hưng Long thứ 8 (1300). Quan võ dùng kiểu mũ áo mới. Quan
văn đội mũ chữ Đinh ( ) màu đen. Cửa tay áo các quan văn, võ rộng từ
9 tấc đến 1 thước 2 tấc.
Năm 1395 Lịch Triều tạp kỷ quy định: Nhất phẩm thì màu tía, nhị
phẩm màu đại hồng, tam phẩm màu đào hồng, tứ phẩm, ngũ phẩm màu
lục; thất phẩm màu biếc, bát cửu phẩm màu xanh.
“Trang phục nhân dân:
Đàn ơng thường cởi trần hoặc mặc áo tứ thân màu đen, cổ cáo tròn
bằng the, quần mỏng bằng lụa thâm. Đại đa số trọc đầu, đi đất, có người
đi giầy da. Tục xăm mình cũng rất phổ biến.
3. Trang phục thời Lê - Mạc
Trang phục triều đình:
Đời vùa Lý Thánh Tơng (từ năm 1934) khi hành đại lễ: vua mặc áo
long cổn, đầu đội mũ miện, còn lễ thượng triều thì mặc áo hồng bào, đội
mũ xung thiên.
Chúa Trịnh trong các đại lễ, và ngày thường khơng khác vua Lê là
mấy chỉ khác về màu ắc (vua dùng màu vàng, chúa dùng màu tía) thể hiện
sự lấn quyền nghiêm trọng.
1486 định kiểu mũ chầu: các quan van võ vào chầu, đội mũ ơ sa, hai
cánh chuồn phải nhất luật hơi hướng về đằng trước, khong được tự ý làm
ngang, hay lệch.
Triều đình lại định thể trang phục khi tiếp sứ nhà Minh các cơng
hầu, bá, nh phò mã, và các quan văn võ, đều phải màu sẫm, cáo có cổ
bằng gai, tơ, sa là sắc xanh dài cách đất một tấc (3,3cm) tay rộng 1 thước
hai tấc (40cm). Sự quy định về trang phục thể hiện lòng tự tơn dân tộc,
khơng để cho nước ngồi coi thường.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

6
Mũ của hồng thân trang sức bằng vàng, quan văn quan võ trang
sức bằng bạc: áo dùng áo tía, hinh con kỳ lân: quan văn có hình con tiên
hạc; quan võ hình con sư tử.
Mệnh phu mặc theo với phẩm trật của chồng - người đàn bà nào
chính bản thân làm nên sang hiển thì khơng phải kém mũ áo của chồng.
Đến năm 1720 đổi lại: áo của hồng thânm, vương thân mùa xn mùa hạ
dùng sa tầu; đội mũ lơng đi ngựa, màu thu, mùa đơng dùng đoạn tầu
màu trầm trượng.
Trang phục người dân:
Đàn bà lao động thường mặc yếu cổ xây, cánh tay để trần, mặc váy
ngắn, thắt lưng thả phía trước. Đầu thường dùng khăn lượt để cuốn tóc lúc
yết kiến bậc tơn trưởng lại xồ xuống để kính lễ. Đàn ơng lao động cởi
trần, đóng khố. Đàn ơng - đàn bà đội nón xn lơi, tiểu lạp (nón rọ nhỏ).
Người ở kinh thành đội nón liên diệp. Các ơng già đội nón ngoan sác, con
nhà quan và học trò đội nón phương đẩu đại. Họ hàng nhà quan và một số
ơng già đội nón cổ câu v.v… Trang phục thời này khá phong phú, độc đáo
cảu sức sống mãnh liệt được gìn giữ tới ngày nay.
4. Trang phục thời Nguyễn - Pháp thuộc
Đầu thời Nguyễn trang phục cũng được quy định rất ỉ mỉ. Nhưng
đầu thời Nguyễn trang phục cũng được quy định rất tỉ mỉ. Nhưng do sự
pha tạp của yếu tố Đơng - Tây càng làm trang phục thêm lố bịch lai căng
(đặc biệt là tầng lớp thống trị).
Trang phục triều đình: Vua có mũ miện, xiêm, đai, hia, hốt, mũ
miện: thân hình tròn ống, đan bằng dây thau, canh trước canh sau, đeo 24
dây tua bằng vàng, sâu 300 hột san hơ. Trân châu pha lê và 400 hạt vàng.
Đỉnh mũ đính 2 chữ vạn thọ. Xung quanh mũ có 12 hình rồng vàng, 6
hình ngọn lửa cũng bằng vàng lại dát hình hoa sen, đám mây bằng 256 hột
vàng.
Áo long cổn bằng sa tanh màu thanh niên thêu nhiều hoạ tiết, mặt
trời trăng sao, rồng. Đai làm bằng da bọc đoạn màu vàng, giữa đính một
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

7
viên ngọc hình vng, xung quanh gắn 6 viên ngọc hình quả trám, bịt
vàng, 392 hạt châu ngọc bên trong có 6 khuy để dính vào áo. Hốt bằng
ngọc dài một thước hai tấc ngang ba tấc có túi gấm đưng.
Quan quan lính triều Nguyễn cũng có quy định rõ rệt.
Càng về sau trang phục của giai cấp phong kiến triều Nguyễn đặc
biệt là tầng lớp trên, càng biểu hiện sự lố lang kệch cỡm lai căng (như
hình ảnh Khải Định).
Trang phục người dân cũng có nhiều thay đổi.
Các bà các cơ ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ thường mặc áo cánh
ngắn bên trong là tấm yếm màu vàng tơ tằm hay bằng vải màu hoa hiên
hoặc màu nâu non. Hai đầu cổ yếm có hai dải nhỏ để buộc ra sau gáy. Áo
dài
Áo ài: là loại áo hai vạt phía trước đều nhau bng thả xuống khơng
cài khuy. Người nào cũng ni tóc dài và vấn khăn. Nếu đi tóc dài hơn
khăn, sẽ rủ xuống cạnh tai trái của người phụ nữ. Tác đi gà là hình thức
trang điểm được ưa chuộng thời đó:
“Một thương tóc bỏ đi gà.
Hai thương ăn nói mặn mà có dun”
Mùa rét phụ nữ ở miền Bắc và Bắc trung bộ còn chít trên đầu một
chiếc khăn vng màu thâm, khi chít gập chéo khăn lại, đặt lên đầu, 2 góc
khăn buộc lại dưới cằm tại được phủ kín. Cũgn có kiểu đặt mép khăn dưới
gần trán, kéo hai bên khăn về hai phía cho thành một hình mỏ quạ ở giữa
rồi buộc hai đầu khăn xuống dưới cằm hoặc quặt hai đầu khăn buộc ra sau
gáy gọi là chít khăn mỏ quạ.
Phụ nữ miền Nam và Nam Trung bộ ưa mặc màu đen áo cánh dài
cúc giữa, mặc quần khơng mặc váy, dùng khăn vải màu sáng hoặc kẻ ơ
gập lại vắt trên đầu để tránh nắng.
Chiếc ao mớ ba mớ bảy trong ngày xn chảy hội của cơ gái Kinh
Bắc là một nét đẹp đậm đà. Đó là một bộ áo dài ba chiếc, ngồi cùng là
chiếc áo tứ thân bằng the, màu thâm hoặc màu tam giang, hai chiếc bên
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

8
trong màu mỡ gà, và màu cánh sen, màu vàng chanh hay màu hò thuỷ. Chị
em còn dùng một số loại nón như nón ba tầng, nóng thúng, nón giang
v.v…
Trang phục đàn ơng trong cả nước thời kỳ này tương đối giống
nhau. Khi lao động thường mặc bằng vải Đồng Lâm nhuộm nâu, áo cánh
ngắn bốn thân cài cúc. Đặc biệt là ở miền Trung có loại áo Lác: là loại áo
đan bằng cỏ lác để dùng khi giá rét, là một hình chữ nhật gập đơi với một
lỗ kht ở giữa làm cổ, một sợi dây buộc làm thắt lưng bó sát vào người.
Mặc quần đùi hoặc quần lá toạ khi lao động. Để tóc dài và búi lên đỉnh
đầu. Thời tiết nóng bức, đàn ơng thường cởi trần.
Nón của đàn ơng thường là hình chóp. Một số người vẫn để tóc dài
và cuốn khăn, với kiểu chít khăn, kiểu quấn khăn nhiều vòng. Đàn ơng ra
đồng gặp mưa thường mang ơ dù trắng, hoặc đen (còn gọi là ơ cánh giơi).
Từ 1930 phong trào cắt tóc ngắn rẽ ngơi lệch càng rầm rộ, người đứng
tuổi mặc áo dài - đội khăn xếp được làm sẵn, khi dùng chụp lên đầu rất
tiện.
Người đi làm (viên chức) còn mặc com lê, quần tây, áo sơ mi đi dày
tây bằng da đen, đội mũ cát trắng v.v…
Nói chung trong giai đoạn này, có những sự đổi thay đáng kể trong
trang phục so với giai đoạn trước. Tuy rằng có những thay đổi tây hố
nhưng thường chỉ là ở tầng lớp quan chức, viên chức. Nhiều nét văn hố
trong trang phục vẫn được lưu giữ và cách điệu đẹp hơn cho phù hợp
ưđiều kiện lao động - sinh hoạt.
III. TRANG PHỤC TỪ CÁCH MẠNG THÁNG 8 ĐẾN NAY
Từ khi đất nước độc lập, tự do cả trong nam và ngồi bắc đều diễn
ra sơi nổi các phong trào hoạt động, lao động xây dựng đất nước. Mọi
người sống hồ đồng hơn. Những gia đình giàu có bớt ăn mặc diêm dúa
mà theo mọi người tham gia hoạt động cơng ích. Các em nhỏ thiếu niên
trong trường học mặc đồng phục, tham gia các phong trào đồn đội đã xố
đi ranh giới: con ơng chủ, chị sen, con ơng đốc, anh thợ.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

9
Với hồn cảnh lịch sử mới, chị em phụ nữ cũng thay đổi cách ăn
mặc cho phù hợp với hoạt động, ăn mặc gọn gàng giản dị hơn: áo cánh
nâu, cổ tròn, hay cổ quả tim, trong mặc áo lót khơng tay quần đen bằng
vải phin hay láng. Những người thốt ly làm cán bộ mặc áo kiểu sơ mi đại
cán, tay thẳng, cổ hình cánh nhạn, áo thường may bàng vải xanh hồ bình,
hay ka ki màu xi măng, màu be hồng, đi dép cao su đen.
Suốt trong những năm tháng đấu tranh để giải phóng miền Nam, có
những đóng góp đáng kể của người phụ nữ. Với những chiếc áo ba ba
khăn rằn trên đầu hay vắt vai, và đặc biệt là đơi dép cao su truyền thống
cùng với hình ảnh chiếc mũ tai bèo, những đội qn “tóc dài” anh dũng đã
làm cho giặc Mỹ bao phen điêu đứng.
Hình ảnh những cơ dân qn áo cánh nâu non, chít khăn vng đen
mỏ quạ, chiếc thăt lưng da to bản, thắt ngang người vai đeo súng là một
hình ảnh đẹp mới của người phụ nữ Việt Nam. Nữ cơng nhân mặc bộ quần
áo bảo hộ lao động, màu tím than hay áo sơ mi trắng quần tím than liền
yếm, tóc cặp gọn lên cao, cắt ngắn hay uốn. Đội mũ lưỡi trai hay chùm
bao tóc bằng vải hoặc buộc chéo trên đầu chiếc khăn nhiều màu, chân đi
giày ba ta, giầy vải thấp cổ hay đi dép cao su đen. Áo bờ lu dài màu trắng,
quần vải trắng đội mũ tòn trắng khi làm việc là trang phục của chị em
ngành Y tế. Chị em mậu dịch viên mặc áo sơ mi cổ hai ve, tay thẳng rộng
màu xanh hồ bình hay màu trắng. Những bộ trang phục ấy tốt lên vẻ
nhẹ nhàng, thanh lịch từ ngàn xưa đúc lại, đồng thời còn thể hiện sức
sống mạnh mẽ của vẻ đẹp truyền thống đã được gìn dữ bao đời nay.
1. Trang phục đàn bà từ 1975 đến nay
Phụ nữ đứng tuổi ở thị thành, ngày thường mực áo cánh, áo bà ba,
áo sơ mi Hồng Kơng, áo ớ mi triết ly, với các loại cổ, hình quả tim, cổ
thìa, cổ vng, hình chữ V, cổ cánh nhạn, cổ hai ve. Nữ thanh niên có
nhiều kiểu áo: áo bộ đồ mặc ở nhà, áo chui, áo mớ, áo sơ mi chiết ly, áo
sơ mi Hồng Kơng, áo vai bồng, vai liền, vai tra, vai chéo, áo có hoặc
khơng có cầu vai, có các loại cổ: như cổ chữ B, cổ một ve, cổ hai ve tròn,
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

10
cổ hai ve nhọn, cổ hai ve liền, cố lá sen tròn, cổ lá sen nhọn, cổ hai ve
liền.
Cổ đứng, cổ cánh nhạn; cổ lính thuỷ: cổ Nhật Bản, cổ con bát v.v…
Mùa hè thì dùng nhiều loại vải phù hợp với khí hậu Việt Nam như phin
nõn, lụa, xoa. Mùa đơng phát triển rất mạnh áo vét, cáo len dài tay, áo len
ngắn tay, khơng tay, áo khốc hiểu măng tơ có đai thắt eo, áo chui đầu cổ
cao.
Guốc, dày vẫn có các kiểu, gót nhọn, gót vng, gót bằng. Chất liệu
giày bằng da, dep bằng nhựa nhiều màu, guốc bằng gỗ sơn nhiều màu, hay
sơn mài, guốc có nhiều hình trang trí, hoa văn. Nói chung giai đoạn này
cách ăn mặc của phụ nữ 3 miền khơng khác nhau là mấy (do điều kiện
giao lưu, hoạt động khi đất nước đã thống nhất). Và đặc biệt chiếc áo dài
dù có những nét cách diệu hơi khác nhau nhưng nó đã trở thành chiếc áo
đặc trưng, đẹp mà dun dáng cho cả phụ nữ ba miền và là thành tựu của
sự sáng tạo độc đáo của sự đấu tranh bền bỉ của cái tốt thắng cái xấu, nét
độc đáo chân chính phải thắng văn hố lai căng kệch cỡm.
2. Trang phục đàn ơng
Thời kỳ đổi mới, cách ăn mặc của nam giới cũng có những nét thay
đổi mới phù hợp chuyển biến linh hoạt theo thời đại.
Sau cách mạng tháng 8-1945 trnag phục đàn ơng ở vùng tự do có
nhiều thay đổi, cách ăn mặc giữa cán bộ và dân thường hồ đồng với
nhau. Thanh niên nơng thơn bắt đầu mặc áo sơ mi, quần âu, trong khi đó
nhiều cán bộ đã mặc quần áo nâu để dễ thâm nhập và quần chúng nơng
thơn. Sau này chiếc áo vải ka ki đại cán bốn túi mặc ngồi phổ biến (kiểu
áo Tơn Trung Sơn được Việt hố). Mùa rét chiếc áo kaki có hai túi cheo,
màu tím than là màu vỏ áo chùm ra ngồi một nền bơng máy ơ vng rất
phổ biến, phù hợp với cuộc sống lao động và giai đoạn thời chiến. Đơi
dép cao su làm bằng lốp ơ tơ được dùng phổ biến (vì rẻ tiền, tiện lợi).
Ở miền trrong (vùng địch tạm chiếm). Cách ăn mặc cũng khơng
khác, khơng phức tạp nhiều ở các vùng nơng thơn. Đàn ơng nhiều tuổi vẫn
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

11
mặc áo the, áo sa tanh đen hay màu lam áo gấm hoa hình chữ thọ, quần
trắng ống sớ, đầu đội khăn xếp, đi dày da láng hay dày da đen, một số
mặc âu phục trung niên, thanh niên mặc sơ mi, áo vét tơng, thắt cravat mũ
lưỡi trai. Các loại quần âu du nhập vào Việt Nam cũng được biến đổi cho
phù hợp với con người Việt Nam.
Về áo: nam giới thường mặc áo sơ mi may bó, ve cổ áo và mang sét
to bản, có người mặc áo chiết ly, gấu ao lượn, vạt ơm lấy mơng, có người
mặc áo phơng, áo dệt kim ba lỗ: Mùa đơng cũng như nhữn ngày lễ, hội,
đàn ơng thành thị mặc comlê các màu gần đây ưa màu sáng như màu sữa
màu ghi nhạt. Mọi người đi dép cao su đen có 2 quai chéo phía mũi dép
và hai quai ngang đằng sau, hay dép cao su cải tiến đế cao từ 3 - 7 cách
mạng, có hai quai chéo như xăng đan, xăng đan bằng da, đế da hay đế kếp
dép nhựa hoặc săm pơ các loại,dày tây, dày ba ta cũng được sử dụngk
ngày lễ ngày tết đi dày tây các kiểu.
Nhìn chung trang phục của đàn ơng trong cả nước nhất là ở thành
thị đã được may theo kiểu trang châu Âu có phần gọn gàng thuận tiện và
theo phong tục cũng như điều kiện khí hậu, nưhngx trang phục này cũng
được cải tiến nhiều cho phù hợp. Khơng còn thấy rõ sự phân biệt tầng lớp
xã hội qua các trang phục như xã hội cũ nữa.
3. Trang phục lễ cưới
Người dân ta vẫn quan niệm rằng: chuyện đám cưới là chuyện “trăm
năm” vì vậy trang phục trong lễ cưới cũng được người Việt ta rất lo toan
chu đáo. Thời xưa, những bộ trang phục cho cơ dâu chú rể trong ngày
cưới là những bộ trang phục truyền thống còn ngày nay trang phục lễ cưới
được bổ sung thêm, đẹp hơn phong phú hơn.
Ở thành thị, cơ dâu trang điểm son phấn, còn thêm bơng hoa hồng
trắng bằng voan ở ngực trái, tay ơm bó hoa layơn trắng, tượng trưng cho
sự trong trắng, mặt khác cũng để đơi tay đỡ ngượng ngiụ. Chú rể mặc com
lê thắt caravat hay cài nơ ở cổ đo dày da. Chú rể mặc com lê bằng vải trơn
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

12
màu sáng đeo cravat, cai một bơng hoa trắng trên ngực hoặc đơn giản hơn
có thể mặc áo sơ mi dài tay và thắt crầt nếu trời nóng lực.
Nói chung sự hướng trang phục lễ cưới về sau càng theo hướng giản
dị tránh trang điểm l loẹt, và quay trở về với truyền thống. Những chiếc
áo dài truyền thống vẫn được sử dụng rộng rãi trong các lễ cưới của nhân
dân miền Nam và miền Trung (xứ Huế). Những trang phục cưới của thanh
nhã giữ được những nét cổ truyền của dân tộc như trên càng làm tơn vẻ
đẹp cho các cơ dâu càng được nhiều người ưa thích.
Trang phục của người Việt Nam trải qua cả một q trình lịch sử
lâu dài, nhiều loại trang phục khác nhau được ra đời và đơi lúc có những
loại trang phục do anh từ bên ngồi đã du nhập vào Việt Nam. Nhưng dù
thế nào đi nữa văn hố dân tộc ln được bảo tồn và phát huy và chỉ có
những trang phục phù hợp với con người điều kiện tự nhiên Việt Nam mà
mang đậm bản sắc dân tộc được lưu giữ tới ngày nay. Đó chính là nhờ bàn
tay tài hoa, óc sáng tạo của cha ơng đã biết gìn giữ những cái đẹp từ
nghìn xưa để lại tạo nên những cái đẹp thẩm mỹ tinh tế trong trang phục
của Việt Nam.
THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Mỹ học đại cương - TS. Thế Hùng, Nxb Văn hố thơng tin.
2. Cẩm nang ứng xử - Bí quyết trẻ lâu, sống lâu - TS Thế Hùng.
Nxb Văn hố thơng tin.
3. Tìm hiểu trang phục Việt Nam (Dân tộc Việt)
4. Cơ sở văn hố Việt Nam - Trần Ngọc Thêm























THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét