I. PHÁT BIỂU VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết, tháng 12 năm 2006, nước ta chính thức gia
nhập WTO. Sau sự kiện này, Việt Nam sẽ mở cửa hoàn toàn dịch vụ tài
chính, kế toán, kiểm toán, bảo hiểm… cho các đối tác nước ngoài. Điều
này dẫn đến một yêu cầu thực tế bức thiết là thông tin về thị trường tài
chính Việt Nam phải được minh bạch và có độ tin cậy cao. Do đó, sự bùng
nổ về cầu đối với lĩnh vực kiểm toán sẽ là điều tất yếu. Công tác kiểm toán
sẽ là một trong những chìa khóa tăng cường sự minh bạch cũng như sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Trong hoạt động kiểm toán,
nguồn lực con người được coi như là yếu tố quyết định đối với chất lượng
dịch vụ cung cấp. Tuy nhiên điều kiện thực tế Việt Nam cho thấy: nguồn
nhân lực phục vụ cho ngành kiểm toán còn đang rất thiếu hụt cả về số
lượng lẫn chất lượng, do đó mà chất lượng dịch vụ kiểm toán cũng còn
nhiều hạn chế. Vì vậy việc xây dựng và phát huy đầy đủ sức mạnh nguồn
nhân lực cho ngành kiểm toán trở thành một vấn đề bức thiết của nền kinh
tế hiện nay.
Với những kiến thức về phương pháp luận triết học đã lĩnh hội được
từ các bài giảng triết học, em chọn đề tài “Vận dụng phương pháp luận
duy vật biện chứng trong việc xây dựng và phát huy nguồn nhân lực
cho ngành kiểm toán độc lập tại Việt Nam” để trình bày một số quan
điểm của mình về phương pháp luận triết học trong việc định hướng giải
quyết vấn đề này. Em rất mong sẽ nhận được ý kiến đánh giá của các giảng
viên để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn!
1
II. LUẬN CHỨNG LÝ DO NÊU VẤN ĐỀ
Căn cứ vào đâu mà lại coi vấn đề xây dựng và phát triển nguồn nhân
lực cho ngành kiểm toán là một trong những vấn đề bức thiết của yêu cầu
phát triển kinh tế hiện nay? Điều này xuất phát từ đòi hỏi khách quan của
nền kinh tế đối với hoạt động kiểm toán cũng như trong chính khả năng
thực tế về nhân lực của ngành kiểm toán trong việc đáp ứng yêu cầu thị
trường.
1. Đòi hỏi khách quan của nền kinh tế
Những năm gần đây, thích ứng với yêu cầu chuyển đổi nền kinh tế
theo cơ chế thị trường và hội nhập với thế giới, hoạt động kiểm toán ở nước
ta đã hình thành và phát triển một cách nhanh chóng. Dịch vụ kiểm toán
được coi là một trong những dịch vụ có tính chuyên nghiệp cao và có ý
nghĩa rất to lớn trong việc tạo lập môi trường kinh doanh minh bạch và có
hiệu quả. Sau yêu cầu cổ phần hóa các doanh nghiệp và sự kiện mở cửa gia
nhập WTO, thị trường Việt Nam sẽ vận hành sôi động với sự tham gia của
rất nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước trong các lĩnh vực ngân hàng, tài
chính, bảo hiểm, sản xuất, khai thác… Điều này chỉ có thể thực hiện được
khi thông tin về tình hình tài chính là minh bạch và đáng tin cậy. Sự phát
triển như vũ bão của số lượng các doanh nghiệp và sự đột biến của thị
trường chứng khoán như vừa qua làm cho nhu cầu về dịch vụ kiểm toán
ngày càng tăng mạnh.
Vấn đề cơ bản đặt ra cho nền kinh tế hiện nay là phải cung cấp được
dịch vụ kiểm toán với chất lượng đảm bảo trong điều kiện cung thấp mà
cầu về dịch vụ kiểm toán lại rất cao. Chất lượng dịch vụ trở thành vấn đề
cơ bản có tính chất sống còn đối với các công ty kiểm toán độc lập tại Việt
2
Nam, đặc biệt khi các công ty kiểm toán nước ngoài ngày càng có nhiều cơ
hội thâm nhập thị trường. Muốn vậy, các công ty kiểm toán độc lập Việt
Nam phải phát huy mọi nguồn lực của mình, trong đó nguồn lực con người
là then chốt và quyết định. Kiểm toán vốn là ngành lao động phức tạp đòi
hỏi hàm lượng chất xám và tư duy cao nên để xây dựng kỹ thuật, phương
pháp, quy trình kiểm toán hiệu quả, yêu cầu quan trọng hơn hết là phải nuôi
dưỡng được nguồn nhân lực hùng hậu có trình độ cao nhằm đảm bảo yêu
cầu cung cấp dịch vụ, tránh tình trạng “tự thua trên sân nhà”. Nền kinh tế
đặt ra yêu cầu khách quan đối với nguồn nhân lực kiểm toán là phải đủ về
số lượng, cao về chất lượng và trình độ chuyên môn cũng như giàu về kinh
nghiệm thực hành.
2. Thực trạng nguồn nhân lực kiểm toán
Tuy nhiên, từ thực tiễn hoạt động của ngành kiểm toán cho thấy
nguồn nhân lực của ngành vẫn còn thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng
Về số lượng, nhân lực ngành kiểm toán đang ở tình trạng thiếu hụt
trầm trọng. Hiện nay, cả nước chỉ có gần 1.000 kiểm toán viên có chứng
chỉ hành nghề. Con số này quá ít ỏi trước sự bùng nổ của nhu cầu kiểm
toán. Hơn nữa, tiêu chuẩn để được cấp chứng chỉ hành nghề kiểm toán là
rất cao như phải có bằng đại học chuyên ngành, rồi 5 năm kinh nghiệm và
phải trải qua 8 môn thi rất khó khăn Do vậy tính đến nay số lượng kiểm
toán viên chuyên nghiệp ở Việt Nam còn rất thấp so với yêu cầu của nền
kinh tế.
Bên cạnh đó, số lượng nhân lực của ngành luôn biến động xáo trộn
vì đây là một trong những nghề luôn phải đối mặt với những thách thức
pháp lý. Áp lực công việc, đặc biệt trong mùa kiểm toán, làm cho các kiểm
3
toán viên căng thẳng quá mức thường xuyên, khiến họ dễ dàng bỏ nghề
hoặc chuyển sang các lĩnh vực khác. Một số kiểm toán viên sau khi đã có
chứng chỉ kiểm toán quốc tế lại chuyển công tác hay định cư ở nước ngoài.
Tình trạng chảy máu chất xám thường xuyên diễn ra trong ngành làm cho
nguồn nhân lực về kiểm toán lại càng trở nên thiếu hụt hơn so với yêu cầu
của nền kinh tế.
Về chất lượng, số lượng kiểm toán viên đạt trình độ chuẩn Việt Nam và
quốc tế còn rất thấp. Theo Hiệp hội kế toán công chứng Anh (ACCA), hiện
Việt Nam chỉ có gần 1.000 kiểm toán viên có chứng chỉ hành nghề, trong khi
nhu cầu kiểm toán ngày càng tăng. Trong khi đó, chứng chỉ kiểm toán viên
của Việt Nam còn chưa được công nhận rộng rãi và con số trên 200 kiểm toán
viên có chứng chỉ quốc tế trong tổng số gần 1.000 kiểm toán viên Việt Nam là
một con số quá ít để có thể có được sự an tâm của các nhà đầu tư nước ngoài.
Đa số kiểm toán viên Việt Nam nắm rất vững lý thuyết, thành thục về chuyên
môn, nhưng khả năng tư vấn cho doanh nghiệp chưa cao. Ngoài ra, khả năng
ngoại ngữ cũng là trở ngại khá lớn với kiểm toán viên Việt Nam.
Công tác giáo dục mới chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ về số lượng
và chất lượng kiểm toán viên. Các trường đại học của Việt Nam chưa đủ tiêu
chuẩn quốc tế. Nghề kiểm toán, kế toán cũng là một nghề mới nên chất lượng
chưa được cao, số lượng thì chưa nhiều. Trong khi đo, tỷ lệ kiểm toán viên
học các chứng chỉ quốc tế còn chưa cao do chi phí học tập khá cao trong điều
kiện Việt Nam. Dự đoán trong tương lai số lượng kiểm toán viên có trình độ
quốc tế cũng chưa thể tăng lên nhanh được.
Một vấn đề nữa là tính độc lập của kiểm toán viên còn thấp. Độc lập
là nguyên tắc hành nghề và cũng là tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp không
4
thể thiếu được trong nghề kiểm toán. Nhưng đây lại là điểm yếu của ngành
kiểm toán Việt Nam.
Một hạn chế lớn nữa của nguồn nhân lực kiểm toán trong nước thuộc
về vấn đề nhận thức về chuẩn mực. Cũng như tất cả các quốc gia khác trên
thế giới khi nỗ lực đưa chuẩn mực quốc tế vào áp dụng trong điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội của từng nước, Việt Nam chúng ta còn phải nỗ lực
rất nhiều để hoàn thiện và thực sự đưa bộ chuẩn mực của Việt Nam vào áp
dụng. Hiện nay chúng ta còn gặp vướng mắc trong vấn đề này.
Ngoài ra, do nhân lực của ngành thường xuyên có sự xáo trộn, các
kiểm toán viên dễ dàng bỏ nghề hoặc chuyển công tác nước ngoài, đội ngũ
cán bộ kiểm toán có trình độ và kinh nghiệm thường không hoạt động lâu
trong ngành. Cơ cấu lao động trong ngành kiểm toán thường là nhiều nhân
viên trẻ mới ra trường, kinh nghiệm còn chưa nhiều. Điều này cũng có ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng nguồn nhân lực ngành kiểm toán…
3. Một số nguyên nhân của tình hình trên
Như đã trình bày, yêu cầu khách quan của nền kinh tế đặt ra cho lao
động ngành kiểm toán càng ngày càng tăng về số lượng và chất lượng.
Song với tình hình thực tế hiện nay thì nhân lực của ngành mới chỉ đáp ứng
được một phần rất nhỏ những yêu cầu đó. Thực trạng này có thể bắt nguồn
từ các nguyên nhân sau:
- Kiểm toán độc lập tại Việt Nam mới ra đời trong kinh tế thị trường
còn rất non trẻ và chưa hề có một cơ sở gì làm nền tảng mà hoàn toàn phải
tự thân vận động. Do đó mà vấn đề đầu tư vào nguồn nhân lực cũng còn
nhiều hạn chế
5
- Thời kỳ mới chuyển đổi sang kinh tế thị trường vẫn còn tồn tại
những quan điểm chưa đúng về vai trò của kiểm toán độc lập. Các doanh
nghiệp Việt Nam vẫn còn tư tưởng “chuộng” kiểm toán và thanh tra Nhà
nước. Vì thế lao động trong ngành kiểm toán độc lập vẫn chưa được đánh
giá đúng mức
- Khung pháp lý chưa hoàn chỉnh. Mặc dù trong thời gian gần đây,
hệ thống các văn bản pháp luật về kiểm toán, kế toán đã được đổi mới và
ban hành khá đầy đủ, bao gồm Luật Kế toán, các nghị định, các chuẩn mực
kế toán, kiểm toán dần phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, chúng ta
vẫn còn một khoảng cách khá xa so với thế giới. Các văn bản vẫn mang
nặng tính chất hành chính và chưa tạo ra được sự đồng bộ, thống nhất cũng
như chưa xây dựng được chính sách bồi dưỡng đào tạo và đãi ngộ thỏa
đáng cho kiểm toán viên để giữ chân họ lại trước yêu cầu và áp lực công
việc quá cao.
- Một điểm cần lưu ý là các doanh nghiệp Việt Nam nói chung vẫn
chưa nhận thức đầy đủ vai trò và tầm quan trọng của công việc kiểm toán.
Một số chắc phải đến khi vấp ngã mới thấy tầm quan trọng của kiểm toán,
kế toán. Đơn cử như việc thị trường chứng khoán vừa qua đã nóng lên. Một
số doanh nghiệp đổ xô đầu tư vào nhưng cũng chẳng mấy ai quan tâm các
số liệu, báo cáo sổ sách kiểm toán ra sao
Nguồn nhân lực Việt Nam nói chung và nhân lực ngành kinh tế nói
riêng, vốn được đánh giá là dồi dào, cần cù, thông minh. Tuy nhiên do
những hạn chế nhất định về điều kiện khách quan chủ quan của đất nước
trong thời kỳ đổi mới nên việc huy động và phát huy nguồn lực to lớn này
vẫn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của nó. Như Đại hội VIII đã đề
6
ra, “vấn đề lớn nhất đặt ra là làm thế nào để khai thác tối đa và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực của Việt Nam để đạt được các mục tiêu Công
nghiệp hóa hiện đại hóa trong phát triển kinh tế”, vấn đề quan trọng hàng
đầu đối với nguồn nhân lực cho ngành kiểm toán là phải có giải pháp xây
dựng và phát huy hữu hiệu đối với nguồn lực then chốt này. Muốn vậy cần
phải có nhận thức và phương pháp luận đúng đắn để đưa ra định hướng giải
quyết sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
III. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP LUẬN SAI LẦM TRONG
ĐỊNH HƯỚNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Trước đây, nhận thức về vấn đề này của Việt Nam còn nhiều hạn
chế, phương pháp luận đưa ra để giải quyết vấn đề này chưa thực sự khoa
học và hiệu quả. Chính từ những định hướng giải quyết sai lầm này đã dẫn
đến những phương pháp tổ chức hành động cụ thể chưa phù hợp và để lại
kết quả như hiện nay là nguồn nhân lực cho ngành kiểm toán của nước ta
hiện đang thiếu hụt trầm trọng.
Trước yêu cầu cấp thiết là phải đưa ra được giải pháp hữu hiệu để
giải bài toán nhân lực cho ngành kiểm toán, chúng ta cần tránh những
phương pháp luận sai lầm sau đây
1. Nhìn nhận và giải quyết vấn đề chưa toàn diện
Trước đây, cách nhận thức và giải quyết vấn đề này còn phiến diện
một chiều, đôi khi rơi vào chủ nghĩa chiết trung, cào bằng. Do vậy, nhiều
giải pháp đưa ra mới chỉ là giải pháp nhỏ lẻ, tình thế, hoặc đôi khi là giải
pháp rất chung chung và không mấy hiệu quả. Việc xem xét đánh giá về
nguồn nhân lực và yêu cầu tình hình mới chỉ xem xét ở hiện tượng mà chưa
rút ra được bản chất và các mối liên hệ cơ bản; mới chỉ dừng lại ở các hình
7
thức thể hiện mà chưa đi sâu tìm hiểu nội dung yêu cầu; chưa nhận thức
được đâu là cái chung đặc thù của ngành, đâu là cái riêng của từng loại
hình hoạt động; mới chỉ nhìn nhận thực tế mà chưa truy tìm tận gốc nguyên
nhân tạo ra kết quả đó; mới chỉ nhìn thấy hiện thực mà chưa đánh giá được
đúng đắn khả năng và tiềm lực trong tương lai…Đôi khi xem xét theo kiểu
bình quân, cào bằng vai trò của nguồn nhân lực với các yếu tố khác. Kết
quả là các giải pháp đề ra không thực sự hữu hiệu đối với việc phát huy sức
mạnh nguồn nhân lực.
Khi đánh giá vai trò kiểm toán nói chung, kiểm toán độc lập nói
riêng, đặc biệt là nguồn nhân lực kiểm toán còn phiến diện, cục bộ, mới chỉ
nhìn đến một mặt một góc độ nhất định chứ chưa xét đến tất cả các mối
liên hệ tác động qua lại giữa kiểm toán độc lập với các doanh nghiệp và
quan hệ giữa hỗ trợ giữa kiểm toán nhà nước và kiểm toán độc lập. Vẫn
còn coi trọng kiểm toán nhà nước và chưa có đánh giá đúng đắn về vai trò
to lớn của kiểm toán độc lập với sự an ninh và lành mạnh của nền tài chính
quốc gia. Do đó nguồn nhân lực mới chỉ được ưu tiên cho khu vực kiểm
toán nhà nước còn kiểm toán độc lập thì vẫn rất yếu ớt vì chưa được đầu tư
nhiều. Điều này làm hạn chế số lượng và chất lượng nhân lực ngành kiểm
toán độc lập.
Trong giai đoạn trước đây có những lúc chưa nhìn nhận đầy đủ về
vai trò nguồn lực con người, chưa coi đó là một nguồn tài nguyên quý giá
của quốc gia, mà chỉ coi trọng các nguồn lực vật chất, nên chưa phát huy
được sức mạnh và vai trò to lớn của nguồn lực con người. Từ sau quá trình
đổi mới, nhận thức đã có sự biến chuyển theo chiều hướng tích cực, đã
nhận ra được con người là một nguồn lực quý báu của quốc gia để xây
8
dựng và phát triển đất nước vốn đi lên từ một điểm khởi đầu thấp kém. Tuy
vậy vẫn có những nhận thức chưa đầy đủ và toàn diện về nguồn lực con
người, cho rằng con người là nguồn lực sẵn có nên chỉ nhấn mạnh đến việc
sử dụng và khai thác mà không chú trọng đúng mức đến việc bồi dưỡng và
phát triển lâu dài, do vậy mà công tác giáo dục đào tạo chuyên môn cho
ngành này còn nhiều hạn chế. Giáo viên chuyên ngành còn thiếu nhiều và
tài liệu vẫn còn hạn chế.
Vẫn còn tình trạng các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực kiểm
toán vẫn chưa coi trọng coi sự phát triển nhiều mặt và phát triển toàn diện
nguồn lực con người, không coi chất lượng cuộc sống hay hạnh phúc của
của con người là mục tiêu cao nhất cần hướng đến. Do đó trong công tác
điều hành nguồn lao động, điều kiện làm việc đôi khi còn quá khắc nghiệt,
công tác dài ngày, áp lực triền miên, thời gian nghỉ ngơi không kịp để tái
tạo sức lao động…Điều này làm cho người lao động trong lĩnh vực này có
cảm giác bị khai thác quá công suất, cộng thêm đó áp lực công việc khiến
cho nhiều người dễ dàng bỏ nghề để tìm kiếm những công việc có chế độ
đãi ngộ và điều kiện làm việc tốt hơn.
Các biện pháp tổ chức giải quyết thực tế còn cục bộ và thiếu tính
đồng bộ: hệ thống chính sách pháp luật chưa rõ ràng cụ thể, công tác đầu tư
cho ngành kiểm toán vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức, mới chỉ
đào tạo được cho số lượng rất nhỏ, chương trình đào tạo cũng chưa cập
nhật những thay đổi mới nhất của thế giới, đào tạo mới chỉ chú trọng đến lý
thuyết mà chưa đi sâu vào vận dụng…
2. Phương pháp giải quyết chưa xuất phát từ thực tế khách
quan
9
Định hướng giải quyết vấn đề nhân lực ít nhiều còn dựa trên kinh
nghiệm chủ quan mà chưa căn cứ vào thực tế khách quan của chính ngành
kiểm toán độc lập. Có thể nói, việc giải quyết vấn đề chưa xuất phát từ hai
thực tế khách quan đối lập nhau: một bên là đòi hỏi ngày càng cao của thị
trường đối với chất lượng và số lượng nhân lực, một bên là năng lực thực tế
nguồn nhân lực còn hạn chế của ngành. Do vậy các biện pháp đưa ra chưa
thực sự có tác động lớn tới việc bồi dững nguồn nhân lực. Các doanh
nghiệp còn chưa linh động trước những biến đổi phức tạp của thực tế để đề
ra chính sách chiêu mộ, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ hợp lý nên
vẫn chưa giữ chân được đội ngũ kiểm toán viên có trình độ cao.
3. Nhận thức và xây dựng phương pháp giải quyết chưa đảm
bảo nguyên tắc phát triển
Khi đánh giá thực tế mà xa rời nguyên tắc phát triển tức là đã nhìn
nhận sự vật hiện tượng trong trạng thái cô lập và đứng yên. Như thế giải
pháp đưa ra sẽ không tính đến các tình huống có thể xảy ra nên không thể
đưa ra được các điều chỉnh thích hợp phù hợp với tình hình mới. Thực tiễn
công tác đào tạo và phát triển nhân lực ngành kiểm toán cho thấy, do không
dự đoán trước được xu hướng phát triển và vai trò ngày càng to lớn của
hoạt động kiểm toán trong tiến trình hội nhập nên nước ta đã bị chậm hẳn
so với thế giới, chất lượng và số lượng kiểm toán viên cũng còn khoảng
cách rất xa mới đáp ứng kịp nhu cầu thị trường. Hơn nữa các biện pháp để
huy động và phát triển nguồn nhân lực vẫn chưa thực sự có hiệu quả do
chưa dự đoán được xu hướng phát triển, chưa thấy được những mâu thuẫn
và động lực cũng như cách thức phát triển của các loại hình doanh nghiệp
kiểm toán. Do đó một số biện pháp đưa ra mới chỉ mang tính tình thế chứ
10
chưa có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Ví dụ như việc các công ty giữ chân
nhân viên bằng cách tăng lương hiện nay và chính sách ràng buộc nhân
viên. Nhìn bề ngoài thì có vẻ như lương tăng lên vùn vụt mỗi năm, song
thực tế thì đi đôi với tỷ lệ 20%-30% tăng lương là tỷ lệ 200%-300% áp lực
công việc và yêu cầu về trình độ. Việc quy định các ràng buộc khắt khe
trong hợp đồng lao động và trong quản lý càng làm cho nhân viên thấy bị
“kiểm soát quá chặt”. Do vậy mà vẫn chưa thể giữ chân được kiểm toán
viên, nhất là khi các ngành nghề khác lại nở rộ sôi động như hiện nay
4. Bỏ ngoài nhận thức nguyên tắc lịch sử cụ thể, xa rời thực
tiễn trong chỉ đạo hoạt động
Đánh giá về nguồn nhân lực mà không căn cứ vào các yếu tố lịch sử
không gian thời gian cụ thể thì sẽ không thu được nhận thức đúng đắn về
vai trò, vị trí, tác dụng, ưu nhược điểm của từng giai đoạn phát triển nguồn
nhân lực ngành kiểm toán trong tiến trình phát triển chung của nền kinh tế.
Không căn cứ vào điều kiện cụ thể của nước ta (xuất phát điểm trong
ngành kiểm toán dường như từ con số không, thực trạng nền kinh tế còn rất
thấp kém) thì có thể sẽ không thấy khả năng và tiềm lực to lớn của nguồn
nhân lực, và có thể sẽ đưa ra các giải pháp không phù hợp với điều kiện
thực tế và không khả thi, hoặc đưa ra các giải pháp chung chung không
trọng điểm không cơ bản, không đưa ra được giải pháp “đột phá”. Không
căn cứ vào hoàn chản thực tế sẽ không thể đưa ra chiến lược đào tạo hợp
lý, sẽ không thể xây dựng được chính sách phù hợp, việc truyền đạt học tập
kỹ thuật và quy trình của nước ngoài không được điều chỉnh theo tình hình
thực tế của Việt Nam cũng sẽ trở nên máy móc rập khuôn, không khả thi.
Mặt khác nếu xa rời hoạt động thực tiễn thì các giải pháp đề ra cũng chỉ là
11
lý thuyết, vai trò và tác dụng không cao, hơn nữa lại không được thực tiễn
kiểm chứng thì không thể đánh giá được giá trị thực tế của phương pháp đó
đối với yêu cầu thực tiễn để có thể đưa ra những điều chỉnh thích hợp.
IV. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP LUẬN MỚI TRONG ĐỊNH
HƯỚNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Một số nguyên tắc phương pháp luận mới
Giải pháp cho vấn đề nguồn nhân lực kiểm toán hiện nay là phải xây
dựng và phát triển nguồn lực này một cách bền vững cả chất lượng lẫn số
lượng. Theo cách hiểu như vậy thì cần có cách tiếp cận đúng đắn, đó là
tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của phương pháp luận duy vật biện chứng,
bao gồm nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc phát
triển, nguyên tắc lịch sử-cụ thể và nguyên tắc thống nhất giữa nhận thức và
thực tiễn
1.1. Nguyên tắc khách quan trong nhận thức
Nguyên tắc này yêu cầu khi nhìn nhận đánh giá sự vật hiện tượng
phải xuất phát từ thực tế khách quan của chính bản thân sự vật hiện tượng
đó để rút ra kết luận về bản chất, nội dung bên trong, các mối liên hệ phổ
biến… của sự vật hiện tượng đó nhằm có giải pháp cải tạo phù hợp. Khi
xem xét vấn đề nguồn nhân lực ngành kiểm toán độc lập cần xuất phát từ
chính thực trạng nhân lực còn rất thiếu hụt hiện nay của các công ty kiểm
toán độc lập tại Việt Nam, nhận thức được những ưu điểm, hạn chế của
nguồn nhân lực cũng như những yêu cầu bức thiết mà thực tế khách quan
đang đặt ra đối với nguồn lao động trình độ cao này. Cần tránh việc nhận
thức theo ý kiến chủ quan sẽ phạm phải sai lầm duy ý chí trong nhận thức
và đưa ra giải pháp cụ thể cho vấn đề này.
12
1.2. Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc toàn diện yêu cầu việc nhận thức bản chất sự vật hiện
tượng phải đặt trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các yếu tố, các mặt,
các thuộc tính khác nhau trong chỉnh thể sự vật và với các sự vật khác. Qua
đó phải nắm được các mặt, các mối liên hệ chủ yếu, bản chất của sự vật
hiện tượng, tránh nhận thức sai lệch xuyên tạc bản chất sự vật hiện tượng.
Như vậy, nguyên tắc này cho phép chúng ta tính đến mọi khả năng phát
triển của ngành kiểm toán và mọi yêu cầu đối với nguồn nhân lực. Nguyên
tắc này còn yêu cầu phải xem xét vấn đề nhân lực kiểm toán trong mối
quan hệ với nhu cầu thực tiễn của nền kinh tế để tìm ra hướng đi đúng. Quá
trình xem xét toàn diện này không phải là bình quân dàn đều mà có trọng
tâm trọng điểm nhằm rút ra những vấn đề cơ bản trọng điểm nhất chi phối
nguồn nhân lực hiện nay là vấn đề về chất lượng. Từ quan điểm toàn diện
trong nhận thức, chúng ta rút ra cách nhìn đồng bộ trong hoạt động thực
tiễn và từ đó đề ra hệ thống các giải pháp đồng bộ và có trọng điểm để giải
quyết những yêu cầu đặt ra.
1.3. Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn
Phát triển là sự vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Trong nhận thức, nguyên
tắc phát triển yêu cầu phải đặt hiện tượng cần nghiên cứu trong trạng thái
vận động biến đổi để vừa thấy được trạng thái hiện tại vừa thấy được
khuynh hướng tương lai của nó, nhằm làm rõ khuynh hướng biến đổi và
các hình thức biểu hiện cụ thể cũng như chỉ rõ nguồn gốc động lực sự phát
triển đó là những mâu thuẫn nào. Nghiên cứu thực trạng nguồn lực ngành
kiểm toán độc lập Việt Nam, chúng ta cần đặt trong quá trình vận động liên
13
tục của nó để dự đoán xu hướng và yêu cầu phát triển của nó trong tình
hình mới khi đã gia nhập WTO. Đồng thời chúng ta cũng cần phát hiện các
nhân tố, các quy luật chi phối sự phát triển đó và nguồn gốc động lực của
sự phát triển biến đổi đó là gì, từ đó có biện pháp giải quyết hữu hiệu vấn
đề nhân lực kiểm toán trong từng giai đoạn cụ thể.
Nguyên tắc này đòi hỏi trong hoạt động thực tiễn phải biết nhạy cảm
với cái mới, ủng hộ tạo điều kiện cho cái mới cái tiến bộ ra đời trên cơ sở
kế thừa và phát huy những nội lực vốn có trong nguồn nhân lực
1.4. Nguyên tắc lịch sử cụ thể trong nhận thức và thực tiễn
Đặc trưng cơ bản của nguyên tắc này là xem xét quá trình hình
thành, tồn tại và phát triển của sự vật hiện tượng trong điều kiện, môi
trường cụ thể, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Theo đó, nguyên tắc này yêu cầu
việc đánh giá về quy mô, tính chất nguồn nhân lực kiểm toán độc lập phải
được cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử nhất định với những điều kiện về
không gian thời gian xác định. Trong mỗi giai đoạn cần biết phân tích tình
hình cụ thể để thấy điểm mạnh, điểm yếu, những đặc trưng cơ bản của
nguồn lực lao động so với yêu cầu phát triển của tình hình mới và trình độ
chung trên thế giới. Từ đó mới có thể đánh giá được việc phát huy nguồn
lực lao động đã tương xứng với tiềm năng, trình độ phát triển của nền kinh
tế hay chưa, đã đáp ứng yêu cầu khách quan hay chưa… Trên cơ sở đó mà
có các chính sách bồi dưỡng đào tạo nhân lực hiệu quả hơn
1.5. Nguyên tắc thông nhất giữa nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc này dựa trên cơ sở mối quan hệ biện chứng giữa lý luận
và thực tiễn. Thực tiễn là cơ sở xây dựng nhận thức lý luận đồng thời là cơ
sở để kiểm tra và bổ sung cho tính đúng đắn của nhận thức lý luận, còn lý
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét