2.3 Giai đoạn từ 1987-2004:
Năm 1986 bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc cải cách
kinh tế. Một trong những nội dung quan trọng cần phải đổi mới chính là hệ thống ngân hàng-yếu tố giữ
vai trò như huyết mạch của nền kinh tế.
Ngày 26/3/1988 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT về tổ chức bộ máy Ngân
hàng nhà nước. Theo đó, Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng, được tổ
chức thành hệ thống thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Mô hình Ngân hàng nhà nước Việt Nam bao
gồm 2 cấp: Ngân hàng nhà nước Việt Nam và các ngân hàng chuyên doanh trực thuộc. Quy định này đã
bước đầu thiết lập nên căn cứ pháp lý cho hình thức hệ thống ngân hàng 2 cấp. Trong đó, Ngân hàng nhà
nước Việt Nam vẫn giữ vai trò là cơ quan chủ quản của các ngân hàng chuyên doanh quốc doanh. Chức
năng chủ yếu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã dần chủ yếu tập trung vào việc phát hành tiền, điều
hòa lưu thông tiền tệ và đảm bảo nhiệm vụ quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, thanh toán. Các chức
năng kinh doanh trực tiếp và thực hiện các dịch vụ ngân hàng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế chủ yếu
do các ngân hàng chuyên doanh nhà nước đảm nhận. Điều này đánh dấu bước chuyển biến quan trọng
trong hoạt động ngân hàng và hệ thống ngân hàng ở Việt Nam. Tuy nhiên, ở giai đoạn mới bắt đầu tiến
hành công cuộc cải cách, sự tách biệt giữa Ngân hàng nhà nước Việt Nam với hệ thống các ngân hàng
chuyên doanh vẫn còn chưa thật sự cụ thể. Các ngân hàng chuyên doanh vẫn được xem như các cục, vụ
trực thuộc Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Do đó, yếu tố chủ động, tự chịu trách nhiệm và sự độc lập
giữa hệ thống ngân hàng chuyên doanh với ngân hàng nhà nước Việt Nam cần được tiếp tục cải thiện.
Xuất phát từ yêu cầu hoàn thiện mô hình ngân hàng 2 cấp, ngày 23/5/1990 Hội đồng nhà nước
ban hành “Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Hợp tác xã tín dụng và công ty tài
chính” có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1990. Đây chính là căn cứ pháp lý để chính thức xác lập mô
hình ngân hàng ở Việt Nam trở thành mô hình 2 cấp, đánh dấu bước ngoặt trong quá trình đổi mới hệ
thống ngân hàng và hoạt động tiền tệ-tín dụng ngân hàng. Theo đó, ngân hàng nhà nước Việt Nam chỉ
đảm nhận vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Các nghiệp
vụ ngân hàng sẽ do hệ thống các tổ chức tín dụng trung gian tiến hành. Các ngân hàng thương mại và
những tổ chức tín dụng trung gian được pháp lệnh trao quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về
hoạt động kinh doanh của mình.
Trong quá trình thực thi hai pháp lệnh đã bộc lộ một số điểm hạn chế trước những yêu cầu mới
của quá trình phát triển kinh tế xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế chẳng hạn như hạn chế trong
quy định về nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế, chưa quy định bao quát các loại hình
tổ chức tín dụng, chưa xác định rõ các hình thức huy động vốn, cấp tín dụng… Do vậy, ngày 12/1997
Quốc hội ban hành Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Luật Các Tổ chức tín dụng. Đó là một bước
tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện pháp luật về ngân hàng. Hai đạo luật cũng đã có những tác động
tích cực trong đời sống kinh tế xã hội như tạo ra cơ sở pháp lý cao hơn cho hoạt động của ngân hàng nhà
nước và hệ thống các tổ chức tín dụng; đồng thời, điều chỉnh các hoạt động ngân hàng theo hướng phù
hợp với các quy luật của kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Tiếp tục xu hướng đổi mới toàn
diện hệ thống và hoạt động ngân hàng, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
Ngân hàng nhà nước Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1/8/2003 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật Các Tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 1/10/2004. Những nội dung sửa đổi chủ yếu tập trung vào
việc xác lập một số định nghĩa, các quy định về hình thức của các tổ chức tín dụng, hoạt động kiểm tra,
kiểm toán trong nội bộ các tổ chức tín dụng…
Tuy nhiên, trong xu thế phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính, của ngành Ngân hàng nói
chung và hệ thống Ngân hàng Nhà nước nói riêng cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện để tiếp cận với các
chuẩn mực quốc tế và phù hợp hơn với điều kiện kinh tế - xã hội mới của đất nước. Một số quy định của
Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 1997 (sửa đổi, bổ sung 2003), Luật Các Tổ chức tín dụng 1997 (sửa
đổi, bổ sung 2004) tỏ ra không phù hợp và dẫn đến những bất cập trong thực tiễn triển khai. Chẳng hạn
như, Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam chưa trao đầy đủ thẩm quyền cho Ngân hàng nhà nước với tư
5
cách là một Ngân hàng Trung ương. Điều này đã phần nào hạn chế khả năng chủ động và tính linh hoạt
của NHNN trong việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của một NHTƯ như các quy định liên quan đến
cơ chế tài chính, cơ cấu tổ chức của ngân hàng nhà nước. Mục tiêu hoạt động của ngân hàng nhà nước
được quy định trong Luật còn khái quát. Các quy định pháp lý về điều hành các công cụ chính sách tiền
tệ như chiết khấu, tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất cơ bản còn chưa rõ rang. Ngòai ra,
pháp luật hiện hành còn thiếu các quy phạm điều chỉnh họat động cung cấp thông tin, số liệu thống kê
kinh tế vĩ mô liên quan đến lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Đối với pháp luật điều chỉnh các tổ chức tín dụng và họat động của nó, việc xây dựng đạo luật mới
về Luật Các tổ chức tín dụng trong giai đoạn hiện nay xuất phát từ những yêu cầu khách quan như: khắc
phục bất cập của Luật Các TCTD hiện hành; Đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính trong lĩnh vực ngân
hàng. Một số quy định của Luật Các TCTD hiện hành chưa theo kịp so với công cuộc cải cách hành
chính chung đang được thực hiện. Một số công việc chỉ cần giao cho NHNN nhưng Luật lại giao cho
Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ, nên phát sinh nhiều đầu mối quản lý, làm chậm trễ quá trình
hướng dẫn thực hiện Luật và việc xử lý các vấn đề phát sinh trên thực tiễn. Ngoài ra, thủ tục xin chấp
thuận, chuẩn y các thay đổi của TCTD trong Luật Các TCTD hiện hành mang tính hành chính, không cần
thiết và làm tăng thêm chi phí cho các TCTD cũng cần được xem xét để thay đổi cho phù hợp;- Đáp ứng
nhu cầu đa dạng hoá, tính năng động, linh hoạt trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng.
Luật Các TCTD hiện hành chưa tạo lập được cơ sở pháp lý để cụ thể hoá hoặc đa dạng hoá các dịch vụ
ngân hàng. Các quy định của Luật Các TCTD hiện hành chưa phân biệt phạm vi hoạt động của từng loại
hình TCTD, do vậy, ảnh hưởng đến hoạt động và sự phát triển của các loại hình TCTD. Có thể nói,
những bất cập của Luật Các TCTD như đã nêu không chỉ làm hạn chế sự phát triển và hoạt động kinh
doanh của các tổ chức tín dụng, mà còn ảnh hưởng lớn đến hiệu quả quản lý, thanh tra, giám sát an toàn
của NHNN đối với hệ thống TCTD. Việc soạn thảo và ban hành Luật các TCTD mới gắn với việc khắc
phục bất cập của Luật hiện hành, đặc biệt là các quy định về tổ chức, quản trị, điều hành, kiểm soát, hoạt
động và bảo đảm an toàn, tạo lập khung pháp lý hoàn chỉnh, minh bạch cho tổ chức và hoạt động của các
TCTD là yêu cầu cấp thiết của thực tiễn.
Hơn nữa, vi c xây d ng m i Lu t NHNN Vi t Namệ ự ớ ậ ệ v Lu t Các T ch c tín d ngà ậ ổ ứ ụ sẽ
t o ra ạ khuôn kh pháp lý ổ trong l nh v c t i chính ngân h ng ĩ ự à à phù h p v i chu n m cợ ớ ẩ ự
v thông l qu c tà ệ ố ế và ho n c nh th c ti n c a Vi t Nam. ng th i, vi c hòan thi nà ả ự ễ ủ ệ Đồ ờ ệ ệ
pháp lu t v ngân h ng nh n c Vi t Nam v các t ch c tín d ng còn xu t phát tậ ề à à ướ ệ à ổ ứ ụ ấ ừ
yêu c u v s th ng nh t, ng b c a h th ng pháp lu t Vi t Namầ ề ự ố ấ đồ ộ ủ ệ ố ậ ệ , nh m t o ra sằ ạ ự
t ng thích gi a pháp lu t v ngân h ng nh n c Vi t Nam, T ch c tín d ng v iươ ữ ậ ề à à ướ ệ ổ ứ ụ ớ
nh ng v n b n lu t liên quan c ban h nh m i ho c c s a i, b sung nh :ữ ă ả ậ đượ à ớ ặ đượ ử đổ ổ ư
Lu t T ch c Qu c h i, Lu t s a i, b sung m t s i u c a Lu t T ch c Qu cậ ổ ứ ố ộ ậ ử đổ ổ ộ ố đ ề ủ ậ ổ ứ ố
h i, Lu t T ch c Chính ph , B lu t Dân s , Lu t Doanh nghi p, Lu t Th ngộ ậ ổ ứ ủ ộ ậ ự ậ ệ ậ ươ
m i, Lu t u t , Lu t Ch ng khoán.ạ ậ Đầ ư ậ ứ
Do vậy, ngày 16 tháng 6 năm 2010, Quốc Hội đã thông qua hai văn bản luật Ngân hàng nhà nước
Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng thay thế cho Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 1997 (sửa đổi
bổ sung 2003), Luật Các Tổ chức tín dụng 1997 (sửa đổi bổ sung 2004). Hai văn bản này sẽ có hiệu lực
thi hành từ ngày 01.01.2011.
III. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT NGÂN HÀNG
1. Định nghĩa:
Để có thể hiểu rõ về luật ngân hàng, chúng ta cần phải xét đến vị trí của luật ngân hàng trong hệ
thống pháp luật Việt Nam. Xu hướng chung ở nhiều quốc gia (trong đó có Việt Nam) là tách bạch giữa
luật tài chính và luật ngân hàng. Tuy đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của luật ngân hàng
có thể được xác định cụ thể nhưng chưa hẳn luật ngân hàng được thừa nhận là một ngành luật độc lập
6
trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, luật ngân hàng với các quy phạm pháp luật của nó có vai
trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
Xét theo phương diện là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, khái niệm luật ngân hàng phụ
thuộc vào tiêu chí phân định ngành luật, do vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về nội hàm của khái niệm
này. Từ những quan điểm phổ biến và chung nhất, luật ngân hàng có thể được hiểu như sau:
Luật ngân hàng là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh và quy định về địa vị pháp lý của
ngân hàng trung ương và của các tổ chức tín dụng; các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý
nhà nước và các quan hệ giao dịch có liên quan đến hoạt động lưu thông tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, các
hoạt động ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng của các tổ chức tín dụng và những chủ thể khác trong lĩnh
vực ngân hàng và thị trường tiền tệ.
6
2. Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của luật ngân hàng:
Căn cứ vào khái niệm, đối tượng điều chỉnh của luật ngân hàng có thể được hình dung khái quát là
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước cũng như các quan hệ xã hội nảy sinh từ
hoạt động lưu thông tiền tệ, tín dụng, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và các chủ thể khác tham gia
vào lĩnh vực ngân hàng. Như vậy, đối tượng điều chỉnh của luật ngân hàng bao gồm hai nhóm:
-Các quan hệ quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng.
-Các quan hệ về tổ chức và hoạt động kinh doanh ngân hàng của các tổ chức tín dụng và những chủ
thể khác có tham gia vào lĩnh vực này.
Căn cứ vào nội dung điều chỉnh các quan hệ pháp luật ngân hàng, đối tượng điều chỉnh của luật
ngân hàng có thể được phân biệt thành những nhóm quan hệ xã hội như sau:
-Nhóm các quan hệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
-Nhóm các quan hệ tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng
-Nhóm các quan hệ kinh doanh ngân hàng của các tổ chức khác, tuy không phải là tổ chức tín dụng
nhưng được phép thực hiện một số hoạt động thuộc lĩnh vực ngân hàng.
Về phương pháp điều chỉnh, luật ngân hàng sử dụng hai phương thức chủ yếu để tác động vào các
quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của mình là: phương pháp mệnh lệnh phục tùng và phương
pháp bình đẳng thỏa thuận. Trong đó, phương pháp mệnh lệnh phục tùng chủ yếu được áp dụng trong
các quan hệ xã hội có sự tham gia của ngân hàng nhà nước Việt Nam với vai trò là cơ quan quản lý nhà
nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Lưu ý là, trong một số trường hợp, nếu ngân hàng
nhà nước Việt Nam tham gia vào những mối quan hệ mang tính chất nghiệp vụ, không thể hiện chức
năng quản lý nhà nước, phương pháp mệnh lệnh phục tùng sẽ không được áp dụng. Các quan hệ diễn ra
liên quan đến giao dịch tiền tệ tín dụng, ngân hàng được thiết lập trên cơ sở bình đẳng giữa các chủ thể là
ngân hàng, kể cả mối quan hệ giữa ngân hàng trung ương với vai trò là trung tâm thanh toán, luân chuyển
tiền tệ, làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Phương pháp điều chỉnh của pháp luật ngân hàng đối với
nhóm quan hệ này chủ yếu là phương pháp bình đẳng, thỏa thuận.
3. Nguồn của Luật Ngân hàng:
- Bao gồm:
+ Hiến pháp
+ Các đạo luật (Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các Tổ chức tín dụng)
+ Bộ luật Dân sự
+ Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật Đầu tư
+ Luật Tổ chức chính phủ
+ Các Nghị định, thông tư của các bộ, cơ quan ngang bộ liên quan đến lĩnh vực ngân hàng.
4. Quan hệ pháp luật ngân hàng:
Quan hệ pháp luật về ngân hàng là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý nhà
nước về ngân hàng và những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng được các quy
phạm pháp luật ngân hàng điều chỉnh.
6
Đại học Quốc Gia Hà Nội, Khoa Luật, Giáo trình Luật Ngân hàng, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005, tr42
7
Chủ thể trong quan hệ pháp luật ngân hàng:
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam và các Tổ chức tín dụng
- Chủ thể là Pháp nhân
- Chủ thể là cá nhân
Khách thể trong quan hệ pháp luật ngân hàng
- Tiền, hàng, các giấy tờ có giá, vàng và những dịch vụ tiện ích của ngân hàng
Nội dung của quan hệ PL NH:
Bao gồm các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quan hệ PL NH cụ thể.
8
CHƯƠNG 2:
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM.
1. Khái niệm Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Ở mỗi quốc gia, ngân hàng nhà nước có thể có những tên gọi khác nhau xuất phát từ các yếu tố lịch
sử, sở hữu, thể chế chính trị. Chẳng hạn như, theo hình thức sở hữu, ngân hàng nhà nước có tên gọi là
ngân hàng nhà nước (Việt nam), Ngân hàng quốc gia (Mônđôva, Iran, Hunggari). Theo tính chất, chức
năng, ngân hàng có thể được gọi tên là ngân hàng trung ương (Liên bang Nga), ngân hàng dự trữ (Nam
phi), Hệ thống dự trữ liên bang (Mỹ) hoặc có thể chỉ là những tên gọi có tính chất lịch sử và kế thừa như
Ngân hàng Anh, Ngân hàng Pháp, Ngân hàng Nhật Bản
7
…
Một cách chung nhất, ngân hàng trung ương được hiểu là định chế tài chính công quyền, tiến hành
các họat động ngân hàng nhằm đảm bảo chính sách tiền tệ quốc gia. Khi nghiên cứu về vị trí pháp lý của
ngân hàng trung ương, chúng ta cần phải xem xét mối quan hệ giữa ngân hàng trung ương với bộ máy
nhà nước trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Hiện nay, trên thế giới phổ biến có hai kiểu tổ
chức mô hình ngân hàng trung ương bao gồm: ngân hàng trung ương độc lập với Chính phủ và trực
thuộc Chính phủ.
Đối với mô hình ngân hàng trung ương độc lập với Chính phủ, ngân hàng trung ương sẽ không
nằm trong cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ. Thông thường, nó sẽ chịu sự chi phối từ cơ quan quyền
lực mà không chịu sự lãnh đạo, điều hành từ Chính phủ. Theo định chế này, họat động của ngân hàng
trung ương hòan tòan độc lập với Chính phủ.
Đối với mô hình ngân hàng trung ương trực thuộc Chính phủ, ngân hàng là một bộ phận trong cơ
cấu tổ chức Chính phủ, chịu sự lãnh đạo, điều hành của Chính phủ. Theo định chế này, Chính phủ có thể
can thiệp vào việc tổ chức, điều hành, họat động, kể cả việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
8
Về định nghĩa cụ thể thế nào là ngân hàng trung ương (hay ngân hàng nhà nước), phần lớn pháp
luật về ngân hàng của các quốc gia đều đưa ra khái niệm về ngân hàng nhà nước hoặc thông qua những
quy phạm pháp luật xác định đặc điểm, chức năng để thể hiện khái niệm về ngân hàng nhà nước. Có thể
nói, vị trí pháp lý của ngân hàng trung ương ở một quốc gia sẽ được quyết định bởi mục đích, tính chất,
yêu cầu quản lý vĩ mô của nhà nước đối với họat động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng. Tổng hợp các quy
phạm pháp luật ghi nhận đặc điểm, vị trí pháp lý của Ngân hàng nhà nước (hay ngân hàng trung ương),
thuật ngữ này thông thường được hình dung như sau:
-Ngân hàng nhà nước là một cơ quan nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và
hoạt động ngân hàng.
-Ngân hàng nhà nước là một định chế tài chính thực hiện chức năng cung ứng các dịch vụ ngân
hàng cho chính phủ và cho hệ thống các tổ chức tín dụng.
-Ngân hàng trung ương không lấy mục đích lợi nhuận làm hàng đầu.
-Ngân hàng trung ương là cầu nối giữa chính phủ với nền kinh tế, giữa thị trường tài chính, tiền tệ
trong nước và ngoài nước, các tổ chức tài chính quốc tế.
Đối với Việt Nam, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 không đưa ra điều luật cụ thể về
khái niệm Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Điều 2 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 xác định vị
trí pháp lý và chức năng của ngân hàng nhà nước Việt Nam như sau:
-Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Ngân hàng Nhà nước là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ sở chính tại
Thủ đô Hà Nội.
7
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Ngân hàng, NXB Công an nhân dân, 2006, tr 27.
8
Giáo trình Luật Ngân hàng, Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006, tr 55-56
9
-Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và
ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng); thực hiện chức năng của Ngân hàng trung ương về phát
hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
9
Từ quy định trên có thể nhận thấy:
-NHNNVN được tổ chức theo mô hình trực thuộc Chính Phủ. NHNNVN giữ vai trò là quan quản
lý nhà nước tương đương cấp bộ. Thống đốc NHNNVN mang hàm Bộ trưởng. Qui trình bổ nhiệm, miễn
nhiệm Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam theo các qui định pháp luật hiện hành trong Luật Tổ
chức Quốc Hội và Luật tổ chức Chính Phủ.
-NHNNVN đảm bảo chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng và
ngoại hối. Với các chức năng này, NHNNVN có thẩm quyền sử dụng các phương thức và công cụ quản
lý khi thực thi nhiệm vụ của mình.
-Ngân hàng nhà nước Việt Nam là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Đây là điểm khác biệt giữa NHNNVN với các Bộ khác trong Chính Phủ. Ngân hàng nhà nước Việt
Nam còn là một Ngân hàng. Ngân hàng này thực hiện một số hoạt động ngân hàng đặc biệt, bao gồm:
hoạt động độc quyền phát hành tiền; cung ứng các dịch vụ tài chính, tiền tệ cho Chính phủ và cho các tổ
chức tín dụng.
-Về mặt dân sự, NHNNVN là một pháp nhân. NHNNVN có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước.
Thủ tướng Chính phủ qui định mức vốn pháp định của NHNNVN phù hợp trong từng thời kỳ.
NHNNVN hoạt động theo nguyên tắc Chênh lệch thu, chi hàng năm của Ngân hàng Nhà nước được xác
định từ nguồn thu về hoạt động nghiệp vụ ngân hàng và các nguồn thu khác, sau khi trừ chi phí hoạt
động và khoản dự phòng rủi ro. Ngân hàng Nhà nước trích từ chênh lệch thu, chi để lập quỹ thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ; số còn lại phải nộp vào ngân sách nhà nước. Tư
cách pháp nhân của NHNNVN cho phép nó có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của một chủ thể pháp luật.
Do vậy, NHNNVN có quyền tham gia ký kết các giao dịch với các tổ chức tín dụng và những tổ chức
khác có họat động ngân hàng. Tuy nhiên, mục đích chính của những họat động này luôn gắn với việc
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, đảm bảo an tòan, hiệu quả của hệ thống ngân hàng.
2. Chức năng của Ngân hàng nhà nước Việt Nam:
Khi xem xét chức năng của ngân hàng nhà nước, điều này có nghĩa là xem xét những hướng chủ
yếu trong họat động của nó. Nói chung, các chức năng chủ yếu của ngân hàng trung ương ở các nước
trên thế giới chủ yếu là : độc quyền phát hành tiền, ngân hàng của Chính phủ và các tổ chức tín dụng, chỉ
đạo, điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, giám sát, điều hòa họat động ngân hàng và thị trường tài
chính thông qua các chính sách và biện pháp đặc thù.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam có hai chức năng cơ bản
-Chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối.
-Chức năng là một Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và
cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
Các chức năng cơ bản của Ngân hàng nhà nước Việt Nam được cụ thể hóa thành những nhiệm vụ,
quyền hạn của ngân hàng nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, cụ thể như sau:
2.1. Các nhiệm vụ quyền hạn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện Chức năng
quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối
10
.
Một là, Ngân hàng Nhà nước tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của Nhà nước; Chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng chính sách, kế hoạch và tổ
chức thực hiện phòng, chống rửa tiền.
9
Điều 2 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
10
Nhiệm vụ, quyền hạn của ngân hàng nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực
tiền tệ và hoạt động ngân hàng, ngoại hối được cụ thể hóa tại điều 4 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
10
Các chiến lược mang tính định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các kế hoạch dài
hạn cũng như ngắn hạn đều có sự tham gia soạn thảo, hoạch định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
đặc biệt là phần các chính sách liên quan đến chính sách tiền tệ quốc gia.
Hai là, Ngân hàng Nhà nước xây dựng chỉ tiêu lạm phát hằng năm để Chính phủ trình Quốc hội
quyết định và tổ chức thực hiện. Nhiệm vụ này của ngân hàng nhà nước Việt Nam xuất phát từ hoạt động
của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền đảm bảo chính sách tiền tệ quốc gia. Theo đó,
chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết
định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra. Theo quy định của pháp luật ngân
hàng, Chính phủ trình Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm. Căn cứ vào cơ sở này, Quốc hội
quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm được thể hiện thông qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và
giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Sau khi Quốc hội đã quyết định chỉ tiêu lạm phát
hàng năm, Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng các công cụ
và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ.
11
Như vậy, do mô hình trực thuộc Chính phủ, họat động thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia của ngân
hàng nhà nước Việt Nam không hòan tòan độc lập. Họat động này sẽ được ngân hàng nhà nước Việt
Nam tiến hành thông qua việc xác lập chỉ tiêu lạm phát trình Chính phủ (để Chính phủ trình Quốc hội
quyết định). Mức độ lạm phát trong nền kinh tế luôn gắn liền với việc điều tiết lượng tiền tệ trong lưu
thông. Do đó, cùng với Thủ tướng Chính phủ, thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam sẽ có thẩm
quyền trong việc lựa chọn thực hiện các biện pháp và công cụ kiểm soát hoạt động cung cầu tiền tệ trong
nền kinh tế, đảm bảo giá trị đồng tiền. Có thể nói, sự ổn định tiền tệ là nhiệm vụ quan trọng thường trực
của Ngân hàng Nhà nước, là định hướng chỉ đạo toàn bộ hoạt động của Ngân hàng Nhà nước. Hiệu quả
của chính sách tiền tệ phụ thuộc rất lớn vào tính đúng đắn của khâu hoạch định và sự điều hành phù hợp,
kịp thời cũng như hiệu lực các biện pháp của khâu thực thi chính sách tiền tệ.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước còn tổ chức, điều hành và phát triển thị trường tiền tệ; xây
dựng chiến lược phát triển ngành ngân hàng trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức
thực hiện. Vấn đề xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia chủ yếu mang tính điều chỉnh vĩ mô,
hướng các tổ chức tín dụng vào thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ, nhưng đồng thời vẫn phải đảm
bảo tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức này nên người ta thường dùng khái niệm
"điều tiết" của Ngân hàng Trung ương đối với các hoạt động của tổ chức tín dụng. Điều này có nghĩa là
Ngân hàng Trung ương không can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của các tổ chức tín dụng, mà chủ yếu
sử dụng biện pháp nghiệp vụ tác động gián tiếp để điều chỉnh môi trường và các điều kiện kinh doanh
của các tổ chức tín dụng như vấn đề lãi suất, khối lượng tiền cung ứng, dự trữ bắt buộc…
Ba là, Ngân hàng Nhà nước ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn
bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; tuyên truyền, phổ biến và kiểm tra theo thẩm quyền văn
bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước tham gia xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về tiền tệ và
hoạt động của Ngân hàng trình Chính phủ xem xét báo cáo Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc Hội
thông qua. Bên cạnh đó, với vai trò Ngân hàng trung ương, ngân hàng của các ngân hàng, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp luật về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng
dưới các hình thức Thông tư, Quyết định, Chỉ thị thuộc lĩnh vực quản lý của Ngân hàng Nhà nước, đồng
thời theo dõi, kiểm tra quá trình thực hiện và hiệu quả áp dụng cũng như chiều hướng ảnh hưởng đối với
nền kinh tế và hoạt động của các tổ chức tín dụng. Ngòai ra, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không chỉ
tham gia hoặc chủ trì trong việc xây dựng, soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh mà còn phải có trách
nhiệm trong việc theo dõi, rà soát hiệu lực thực tế của các văn bản pháp luật và có thể trực tiếp hoặc gián
tiếp đề xuất hiệc tiến hành sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện, hệ thống hoá các quy định pháp luật về tiền
11
Điều 3 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010.
11
tệ, hoạt động Ngân hàng. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng trong hoạt động quản lý Nhà nước của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Việc rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản pháp
luật về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần ngăn
chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và đảm bảo an toàn hoạt động của hệ
thống Ngân hàng.
Bốn là, Ngân hàng Nhà nước có thẩm quyền cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập
và hoạt động của tổ chức tín dụng, giấy phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài, giấy phép
thành lập văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động
ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cho các tổ chức
không phải là ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng cho các
tổ chức; chấp thuận việc mua, bán, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và giải thể tổ chức tín dụng theo quy
định của pháp luật
Dưới góc độ pháp luật, giấy phép là hình thức pháp lý thể hiện việc Nhà nước cho phép tổ chức
hoặc cá nhân hoạt động trong một số lĩnh vực khi thoả mãn những điều kiện nhất định. Giấy phép thể
hiện mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và tổ chức hoặc cá nhân xin phép kinh doanh. Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam là cơ quan quản lý Nhà nước chuyên về lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. Do vậy đây là cơ
quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng. Đồng thời,
đối với tổ chức không phải là tổ chức tín dụng muốn hoạt động Ngân hàng cũng phải được Ngân hàng
Nhà nước cấp giấy phép hoạt động Ngân hàng khi thoã mãn những điều kiện nhất định như: Hoạt động
ngân hàng là cần thiết và có liên quan chặt chẽ với hoạt động chính; có đủ vốn, điều kiện vật chất phù
hợp với yêu cầu của hoạt động Ngân hàng…Ngoài ra , trong quá trình hoạt động nếu muốn thay đổi về
tên tổ chức, mức vốn điều lệ, địa điểm đặt trụ sở chính, thành viên Hội đồng quản trị, tỷ lệ cổ phần của
các cổ đông thì tổ chức tín dụng đó cần phải xin phép. Sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận
bằng văn bản, tổ chức tín dụng phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những thay đổi của
mình và phải đăng báo trung ương, địa phương theo quy định của pháp luật. Việc chia, tách, hợp nhất,
sáp nhập, mua lại, giải thể tổ chức tín dụng cũng phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn
bản.
Từ thẩm quyền này, pháp luật ngân hàng cũng trao cho ngân hàng nhà nước Việt Nam khả năng
được quyết định áp dụng biện pháp xử lý đặc biệt đối với tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng các quy
định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, gặp khó khăn về tài chính, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ
thống ngân hàng, gồm mua cổ phần của tổ chức tín dụng; đình chỉ, tạm đình chỉ, miễn nhiệm chức vụ
người quản lý, người điều hành của tổ chức tín dụng; quyết định sáp nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tín
dụng; đặt tổ chức tín dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình
theo quy định của pháp luật về phá sản đối với tổ chức tín dụng.
Năm là, Ngân hàng Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra, giám sát ngân hàng; xử lý vi
phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng theo quy định của pháp luật.
Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là cơ quan trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
thực hiện chức năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát chuyên ngành về ngân
hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước; tham mưu, giúp
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính quy mô
nhỏ, hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; thực hiện phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp
luật; Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có tư cách pháp nhân, con dấu, tài khoản riêng theo quy
định của pháp luật và trụ sở đặt tại thành phố Hà Nội
12
.
12
Điều 01 Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/5/2009 của Thủ t ướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ
quan thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
12
Mục đích của Thanh tra Ngân hàng là góp phần bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Theo quy định tại Nghị định số 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004 của Chính phủ quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
có thẩm quyền kiểm tra tính phù hợp với quy định pháp luật của việc thành lập, hoạt động của tổ chức tín
dụng, hoạt động Ngân hàng của các tổ chức khác; có quyền xử lý các vi phạm pháp luật ngân hàng như
áp dụng biện pháp thu hồi giấy phép hoạt động Ngân hàng, xử phạt vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng được hiểu là những hành vi
của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong nước và nước ngoài cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp
luật về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng mà không phải là tội phạm. Vậy
các hành vi vi phạm hành chính ở đây được xác định bởi hai yếu tố đặc trưng đó là: vi phạm quy định
pháp luật về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng; hành vi đó chưa đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự (không phải là tội phạm). Việc xử phạt hành chính chỉ được áp dụng đối
với những hành vi vi phạm được quy định trong Nghị định 202/NĐ-CP như là: Hành vi tiếp tục hoạt
động Ngân hàng khi không có giấy phép; bị tước giấy phép hoặc giấy phép đã hết thời hạn; hành vi
chuyển ngoại hối hoặc vàng ra nước ngoài hoặc vào Việt Nam trái quy định pháp luật; hành vi che giấu
hoặc đồng loã với hành vi vi phạm pháp luật về hoạt động ngoại hối…
Song song đó, kiểm soát tín dụng cũng là biện pháp quản lý Nhà nước do Ngân hàng Nhà nước
áp dụng đối với các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động Ngân hàng nhằm ngăn ngừa rủi
ro, tiêu cực trong hoạt động tiền tệ và duy trì sự ổn định của hoạt động Ngân hàng trong nền kinh tế.
Sáu là, ngân hàng nhà nước Việt Nam chủ trì lập, theo dõi, dự báo và phân tích kết quả thực hiện
cán cân thanh toán quốc tế. Ở Việt Nam, cán cân thanh toán thanh tóan quốc tế do Ngân hàng Nhà nước
lập và công bố. Đây là nhiệm vụ quan trọng vì cán cân thanh toán thể hiện kết quả của hoạt động kinh tế
đối ngoại. Các số liệu phản ánh trên cán cân thanh toán là cơ sở quan trọng cho công tác xây dựng và
thực thi chính sách tài chính-tiền tệ. Gắn với thẩm quyền này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý
việc vay, trả nợ, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài theo quy định của pháp luật.
Bảy là, NHNNVN chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngoại hối, hoạt động ngoại hối và hoạt
động kinh doanh vàng.
Hoạt động ngoại hối là hoạt động của người cư trú, người không cư trú trong các giao dịch vãng
lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam, hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối và
các giao dịch khác liên quan đến ngoại hối.
13
Theo đó, ngoại hối được pháp luật ngân hàng ghi nhận bao
gồm:Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền chung khác được sử dụng
trong thanh toán quốc tế và khu vực (sau đây gọi là ngoại tệ); Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm
séc, thẻ thanh toán, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác; Các loại
giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại
giấy tờ có giá khác; Vàng thuộc Dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của người cư
trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam; Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển
ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong thanh toán quốc tế.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách quản lý ngoại hối nhằm tạo điều kiện thuận
lợi và bảo đảm lợi ích hợp pháp cho tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ngoại hối, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế; thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân hàng Nhà nước có trách
nhiệm: chủ trì xây dựng và soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật về ngoại hối thuộc thẩm quyền;
cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối; kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các hoạt động ngoại hối.
13
Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010
13
Ngân hàng Nhà nước có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối trong nước qua các nghiệp vụ mua bán,
kinh doanh ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam.
14
Tám là, NHNNVN chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan chuẩn bị nội dung, tiến hành đàm
phán, ký kết điều ước quốc tế với tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế mà Ngân hàng Nhà nước là đại diện
và là đại diện chính thức của người vay quy định tại điều ước quốc tế theo phân công, uỷ quyền của Chủ
tịch nước hoặc Chính phủ. NHNNVN còn chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về tiền tệ
và ngân hàng; đại diện cho Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức tiền tệ và
ngân hàng quốc tế.
Điều ước quốc tế là thoả thuận pháp lý giữa các quốc gia và một số chủ thể khác của Luật quốc
tế, trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, nhằm ấn định, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với
nhau trong bang giao quốc tế phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế hiện đại.
15
.
Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan liên quan chuẩn bị nội dung đàm
phán; theo sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, tiến hành đàm phán và ký các điều ước quốc tế cụ thể
về ODA với các tổ chức tài chính quốc tế: Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng Phát triển Châu Á (ADB); bàn giao vốn và toàn bộ các thông tin liên quan đến chương trình, dự án
cho Bộ Tài chính sau khi các điều ước quốc tế cụ thể về ODA có hiệu lực. Ngân hàng Nhà nước đã và
đang thực hiện tốt chức năng, vai trò đại diện tại các tổ chức tiền tệ và ngân hàng quốc tế trong việc duy
trì, phát triển mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)…; đồng thời tăng cường quan hệ hợp tác
với các tổ chức đa phương, song phương nhằm tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế với Việt Nam
nói chung và ngành Ngân hàng Việt Nam nói riêng, góp phần tích cực thúc đẩy việc Việt Nam gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và hội nhập sâu rộng hơn nữa vào nền kinh tế thế giới. Tính đến
cuối tháng 6/2007, Ngân h ng Nh n cà à ướ ã thay m t Chính ph n c Cđ ặ ủ ướ ng Hòa Xã H iộ ộ
Ch Ngh aủ ĩ Vi t Nam m phán, ký k t v i Ngân h ng Th gi i (WB)ệ đà ế ớ à ế ớ , Ngân h ngà
Phát tri n Châu Áể (ADB)
16
.
Ngoài các nhiệm vụ, quyền hạn nói trên, Ngân hàng Nhà nước còn thực hiện việc tổ chức đạo
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ ngân hàng. Đây là
nhiệm vụ nhằm kiện toàn hoá đội ngũ cán bộ của ngành ngân hàng. Đó chính là nhân tố quan trọng trong
việc thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của NHNNVN với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trong
lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.
Có thể nói, NHNNVN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, ngân hàng và ngoại hối
không đơn thuần bằng việc sử dụng các biện pháp hành chính. NHNNVN chủ yếu sử dụng các chính
sách và công cụ kinh tế để tác động thị trường. Thông qua đó, NHNNVN hướng đến mục tiêu ổn định
giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an tòan cho họat động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng,
thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2. Các nhiệm vụ quyền hạn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện chức
năng là Ngân hàng trung ương.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng Ngân hàng Trung ương chủ yếu bằng các
nghiệp vụ ngân hàng. Do vậy, tính độc lập tương đối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được thể hiện
rõ nét khi thực hiện chức năng Ngân hàng Trung ương. Những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam với vai trò là Ngân hàng Trung ương bao gồm:
14
Quy định cụ thể tại Pháp lệnh ngoại hối được Quốc hội thông qua ngày 13/12/2005 có hiệu lực thi hành ngày 01/6/2006 và Nghị định 160/2006/NĐ-CP
(2801202006) của Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp lệnh ngoại hối 2005.
15
Trang 31 Tập bài giảng Luật quốc tế của Trường Đại Cần Thơ- Kim Oanh Na.
16
Báo cáo số 50-BC/NHNN ngày 16/6/2009 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam v/v báo cáo tổng kết thực hiện Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giai
đọan 1998-2009-Trang 7
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét