Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

Lợi nhuận và một số giải pháp nhằm nâng cao lợinhuận tại Công ty Cổ phần cồn rượu Hà Nội

Luận văn cuối khóa
doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không. Vì vậy, lợi nhuận được coi
là đòi hỏi quan trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản nói lên kết quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là nguồn tích luỹ cơ bản để bổ sung vốn kinh doanh cho
doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng một cách
vững chắc. Lợi nhuận còn là nguồn chủ yếu để cải thiện đời sống vật chất,
tinh thần cho người lao động thông qua tiêu dùng của quỹ khen thưởng, phúc
lợi được trích lập từ lợi nhuận sau thuế.
Lợi nhuận còn là nguồn thu quan trọng đối với ngân sách Nhà nước.
Hàng năm, Nhà nước thu một phần lợi nhuận của các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế dưới hình thức thu thuế thu nhập doanh nghiệp để đáp ứng
nhu cầu chi tiêu cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện tái sản xuất mở
rộng trên quy mô toàn xã hội. Qua đó Nhà nước thực hiện điều tiết lợi ích
trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy
nhất để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh, và cũng không
thể chỉ dùng nó để so sánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp khác nhau do nó có những hạn chế nhất định:
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều
nhân tố, có những nhân tố thuộc về chủ quan, có những nhân tố khách quan
và có sự bù trừ lẫn nhau.
Do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển, thị trường tiêu thụ
làm cho việc so sánh lợi nhuận để đánh giá kết quả sẽ không mang tính khách
quan toàn diện.
Các doanh nghiệp cùng loại, nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi
nhuận thu được cũng khác nhau. ở những doanh nghiệp lớn nếu công tác quản
lý kém nhưng số lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn nhưng doanh nghiệp
quy mô nhỏ hơn nhưng công tác quản lý tốt hơn.
5
SV: Vũ Thị Nguyên - Lớp: K42/11.01
Luận văn cuối khóa
Do vậy, để đánh giá đúng đắn chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp, ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối còn phải dùng chỉ
tiêu lợi nhuận tương đối là tỷ suất lợi nhuận.
1.1.2. Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp.
Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp là một chỉ tiêu tương đối dùng để so
sánh kết quả kinh doanh giữa các thời kỳ trong một doanh nghiệp hoặc giữa
các doanh nghiệp với nhau. Mức tỷ suất càng cao (tức là mức doanh lợi càng
cao) chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động càng có hiệu quả.
Có nhiều cách xác định tỷ suất lợi, mỗi cách có nội dung kinh tế riêng để
đánh giá kết qua trên các góc độ khác nhau. Sau đây là một số chỉ tiêu lợi
nhuận thường dùng:
* Tỷ suất lợi nhuận vốn
Là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận đạt được trước thuế hoặc sau thuế với
toàn bộ số vốn sử dụng bình quân trong kỳ (gồm vốn cố định bình quân và
vốn lưu động bình quân).
Công thức xác định:
P(Pr)
Tsv = x 100%
V
đk
+ V
ck
V
bq
V
bq
=
2
VCĐ = Nguyên giá TSCĐ - Số tiền khấu hao luỹ kế đã thu hồi.
VLĐ gồm: Vốn dự trữ sản xuất, vốn sản phẩm dở dang, bán thành phẩm
tự chế, vốn thành phẩm.
Trong đó: Tsv: tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh (doanh lợi vốn).
6
SV: Vũ Thị Nguyên - Lớp: K42/11.01
Luận văn cuối khóa
P(Pr): Là lợi nhuận (lợi nhuận ròng) trong kỳ.
Vbq: Là tổng số vốn sản xuất sử dụng bình quân trong kỳ
VCĐbq: Vốn cố định bình quân.
VLĐbq: Vốn lưu động bình quân
Vđk: Số vốn kinh doanh đầu kỳ.
Vck: Số vốn kinh doanh cuối kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh
nghiệp, cụ thể: trong kỳ cứ sử dụng 100 đồng vốn bình quân thì thu được bao
nhiêu đồng lợi nhuận (hoặc lợi nhuận ròng). Do đó, tỷ suất lợi nhuận vốn nói
lên trình độ sử dụng vốn hiệu quả nhất hay mang lại nhiều lợi nhuận từ số vốn
tham gia kinh doanh nhỏ nhất.
* Tỷ suất lợi nhuận giá thành.
Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận tiêu thụ trước thuế hoặc sau thuế của sản
phẩm tiêu thụ so với giá thành toàn bộ của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ.
Công thức xác định:
P(Pr)
T
sg
(%) = x 100%
Z
tb
Trong đó: Tsg: là tỷ suất lợi nhuận giá thành
Zơtb: là giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ trong kỳ.
P(Pr): là lợi nhuận (lợi nhuận ròng) của sản phẩm tiêu thụ trong kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả của chi phí bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm trong kỳ. Cụ thể: trong kỳ cứ bỏ ra 100 đồng chi phí sản xuất tiêu
thụ sản phẩm, hàng hoá thì doanh nghiệp sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi
nhuận trước thuế hoặc sau thuế.
* Tỷ suất lợi nhuận doanh thu.
Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận sản phẩm tiêu thụ (trước thuế hoặc sau
thuế) với doanh thu tiêu thụ sản phẩm đạt được trong kỳ.
7
SV: Vũ Thị Nguyên - Lớp: K42/11.01
Luận văn cuối khóa
Công thức xác định:
P (Pr)
Tst (%) = x 100%
T
Trong đó: Tst (%): Tỷ suất lợi nhuận doanh thu
P (Pr): Lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế của sản phẩm tiêu thụ trong kỳ.
T : Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp;
cụ thể: trong kỳ cứ 100 đồng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ thì doanh
nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế.
* Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.
Là tỷ lệ giữa lợi nhuận ròng và số vốn chủ sở hữu bình quân tham gia
kinh doanh trong kỳ.
Công thức xác định:
Pr
Tsh(%) = x 100%
Vcsh
Trong đó:
Tsh(%) : Là tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.
Vcsh : Là vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh sự gia tăng của đồng vốn chủ, cụ thể: nếu bỏ ra
100 đồng vốn chủ sở hữu bình quân để kinh doanh thì sau cùng sẽ mang lại
cho chủ sở hữu bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng.
Do đó: Đây là chỉ tiêu được các chủ sở hữu vốn quan tâm nhất.
Ngoài các chỉ tiêu trên, ta còn có thể xác định doanh lợi vốn đi vay,
doanh lợi vốn cố định, doanh lợi vốn lưu động để đánh giá và so sánh kết
quả kinh doanh trong những trường hợp cần thiết.
8
SV: Vũ Thị Nguyên - Lớp: K42/11.01
Luận văn cuối khóa
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHẤN ĐẤU TĂNG LỢI NHUẬN CỦA
DOANH NGHIỆP.
Lợi nhuận là mục tiêu phấn đấu hàng đầu của doanh nghiệp, nhất là trong
nền kinh tế thị trường thì vấn đề lợi nhuận được quan tâm hơn bao giờ hết và sự
gia tăng lợi nhuận là vô cùng quan trọng. Điều này được xuất phát từ những lý do
sau:
Xuất từ vai trò của lợi nhuận đối với các doanh nghiệp.
Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sản xuất và phân
phối theo kế hoạch của Nhà nước nên vai trò của lợi nhuận không được phát
huy và bản thân doanh nghiệp cũng không thấy được tầm quan trọng của lợi
nhuận. Doanh nghiệp hoạt động lãi hay lỗ đều nộp vào ngân sách hoặc được
ngân sách Nhà nước cấp. Ngày nay, trong cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước ở tầm vĩ mô, nhiều thành phần kinh tế ra đời cùng với sự xoá bỏ
bao cấp với thành phần kinh tế Nhà nước, mọi doanh nghiệp phải đối mặt với
sự cạnh tranh quyết liệt thì chỉ bằng cách kinh doanh có lãi thì doanh nghiệp
mới có thể tồn tại và phát triển được.
Phần lợi nhuận còn lại sau khi bù đắp các chi phí sẽ là nguồn tích luỹ để
doanh nghiệp tái sản xuất, đầu tư mở rộng và đáp ứng những nhu cầu khác.
Các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì nguồn tích
luỹ chủ yếu là từ lợi nhuận thu được.
Lợi nhuận có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Nó là chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh, trình độ tổ chức
quản lý trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời lợi nhuận còn
là đòn bẩy kinh tế quan trọng tác động tới việc hoàn thiện và phát triển kinh
doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có lợi nhuận cao và ổn định thì uy tín
của doanh nghiệp sẽ được nâng cao, mở rộng được thị trường và liên kết với
nhiều đơn vị khác.
9
SV: Vũ Thị Nguyên - Lớp: K42/11.01
Luận văn cuối khóa
Bên cạnh đó, việc tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp thúc đẩy sự tăng
trưởng của nền kinh tế quốc dân, doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả (có
lãi) sẽ nộp thuế cho NSNN, làm tăng tích luỹ và mở rộng sản xuất kinh doanh
trên quy mô toàn bộ nền kinh tế.
Xuất phát từ yêu cầu phát huy quyền tự chủ sản xuất kinh doanh và
tự chủ tài chính của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, không có sự bao cấp về vốn của Nhà nước
cho các doanh nghiệp, Nhà nước giao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp, các
doanh nghiệp thực sự trở thành chủ thể sản xuất kinh doanh độc lập, tự chịu
trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Điều này đã khiến cho các
doanh nghiệp không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc tự khẳng định mình
trên thương trường cũng như trong nền kinh tế. Muốn làm được điều đó
doanh nghiệp phải tự bảo toàn vốn và phát triển được vốn sản xuất kinh
doanh, làm ăn có lãi, vốn tích lũy hàng năm phải tăng lên.
Trên thực tế, hầu hết các doanh nghiệp khi bước vào nền kinh tế thị
trường đã từng bước thích nghi; biết tìm ra những hướng đi đúng đắn và từng
bước làm ăn có hiệu quả. Trên cơ sở đó có thể tự tái sản xuất giản đơn và tái
sản xuất mở rộng, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, cải thiện đời sống cán
bộ, công nhân viên.
Nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề như: Chưa linh hoạt
trong việc xây dựng hoạt động sản xuất kinh doanh, vẫn còn một số doanh
nghiệp còn chậm thích ứng với cơ chế thị trường dẫn đến kinh doanh kém
hiệu quả. Nhà nước và nhà quản lý cần quan tâm, có các chính sách để từng
bước ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh.
Thực tiễn cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới đòi hỏi các quốc
gia phải hợp tác với nhau. Điều này đặt ra vấn đề tháo gỡ dần sự bảo hộ của
Nhà nước với các doanh nghiệp trong nước để kích thích tính sáng tạo, tự chủ
của các doanh nghiệp đồng thời xóa bỏ tính ỷ lại của một số doanh nghiệp
10
SV: Vũ Thị Nguyên - Lớp: K42/11.01
Luận văn cuối khóa
làm ăn không hiệu quả. Hơn nữa, chương trình Việt Nam tham gia khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và đã là thành viên thứ 150 của tổ chức
thương mại thế giới (WTO) sẽ mang đến cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội
và thách thức lớn. Do vậy, các doanh nghiệp phải cạnh tranh trong môi trường
phức tạp hơn và chỉ có kinh doanh hiệu quả, lợi nhuận ngày càng gia tăng mới
giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển. Ngược lại, nếu doanh nghiệp
không nhanh chóng đổi mới trong cách nghĩ, tìm cách đẩy mạnh hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình thì sẽ có nguy cơ bị tụt hậu thậm chí có thể bị
phá sản.
Vì vậy, phấn đấu tăng lợi nhuận không ngừng gia tăng giá trị doanh
nghiệp là một vấn đề hết sức cần thiết, quan trọng đặc biệt là trong giai đoạn
hiện nay khi nền kinh tế đất nước đang chuyển mình.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP.
Lợi nhuận của một doanh nghiệp chịu tác động của nhiều nhân tố, có cả
nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Việc phân tích, đánh giá đúng đắn
ảnh hưởng của các nhân tố tác động thì sẽ giúp cho doanh nghiệp đưa ra
những biện pháp ra tăng lợi nhuận hợp lý và hiệu quả hơn.
Nhóm nhân tố chủ quan.
* Nhân tố số lượng và chất lượng sản phẩm tiêu thụ.
Về nguyên tắc, việc tăng sản lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ làm tăng doanh
thu và lợi nhuận lên (trong điều kiện các nhân tố khác không đổi). Sản phẩm
sản xuất ra càng nhiều thì khả năng về doanh thu sẽ càng lớn và là đòn bẩy để
tăng lợi nhuận. Điều này phụ thuộc vào năng lực sản xuất là công tác lập kế
hoạch về khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong kỳ. Lợi nhuận còn
phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp; tình hình tổ chức công tác tiêu thụ
sản phẩm; việc ký kết hợp đồng tiêu thụ đối với khách hàng; việc giao hàng,
vận chuyển và thanh toán tiền hàng. Ngoài ra, lợi nhuận còn phụ thuộc vào
11
SV: Vũ Thị Nguyên - Lớp: K42/11.01
Luận văn cuối khóa
việc tiết kiệm chi phí; quản lý điều hành doanh nghiệp. Trong thi công, xây
lắp, lợi nhuận còn phụ thuộc vào khối lượng công trình hoàn thành. Việc
chuẩn bị tốt ký hợp đồng kinh tế với các đơn vị mua hàng, tổ chức đóng gói,
vận chuyển nhanh chóng, thanh toán bằng nhiều hình thức thích hợp, xác định
và giữ vững kỷ luật thanh toán với đơn vị mua hàng, tính toán chính xác khối
lượng sản xuất và khối lượng xây lắp hoàn thành, chi phí xây dựng công trình
thấp,… tất cả đều góp phần quan trọng nhằm tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, nếu
như việc sản xuất nhiều vượt quá cầu của thị trường thì sẽ làm ứ đọng, hàng
tồn kho tăng, vòng quay vốn chậm làm giảm số lượng sản phẩm tiêu thụ,
giảm doanh thu của doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp phải nắm vững nhu
cầu thị trường, đầu tư hợp lý để đưa ra số lượng sản phẩm thích hợp.
Nhân tố chất lượng cũng tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp bởi nó
là vũ khí cạnh tranh hữu hiệu và mang tính chiến lược lâu dài. Một sản phẩm
chất lượng tốt, giá trị sử dụng cao, đáp ứng được thị hiếu và có giá bán hợp lý
sẽ được người tiêu dùng chấp nhận, đó chính là con đường gia tăng lợi nhuận
bền vững. Tất nhiên, chất lượng sản phẩm còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố
khác như: trình độ tổ chức, quản lý sản xuất và lao động, kỹ thuật công
nghệ Ta cũng thấy rằng, việc hoàn toàn chú trọng vào chất lượng sản phẩm
chưa chắc đã đem lại hiệu quả như mong muốn, nó có thể đẩy giá bán lên quá
cao và thu hẹp thị trường tiêu thụ. Rõ ràng, nâng cao chất lượng là mục tiêu,
yêu cầu và phụ thuộc rất nhiều vào tính toán chủ quan của doanh nghiệp.
* Nhân tố kết cấu mặt hàng tiêu thụ.
Mỗi doanh nghiệp có thể sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau, giá
cả của chúng cũng khác nhau. Những sản phẩm có vai trò quan trọng, có tính
chất chiến lược đối với nền kinh tế quốc dân, Nhà nước sẽ định giá, còn lại
căn cứ vào những chủ trương có tính chất hướng dẫn của Nhà nước thì doanh
nghiệp sẽ căn cứ vào tình hình cung cầu trên thị trường mà xây dựng giá bán
sản phẩm. Việc thay đổi kết cấu mặt hàng sản xuất và tiêu thụ có ảnh hưởng
đến lợi nhuận, nếu tăng tỷ trọng mặt hàng có lợi nhuận đơn vị cao và giảm tỷ
12
SV: Vũ Thị Nguyên - Lớp: K42/11.01
Luận văn cuối khóa
trọng mặt hàng có lợi nhuận đơn vị thấp sẽ làm tăng tổng lợi nhuận và ngược
lại. Kết cấu mặt hàng chịu sự tác động của cung cầu trên thị trường và việc
tăng giảm tỷ trọng từng mặt hàng còn tùy thuộc vào từng thời kỳ.
* Nhân tố tổ chức lao động và sử dụng lao động.
Đây là nhân tố hết sức quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, chất
lượng và hạ giá thành sản phẩm. Nắm bắt được số lượng lao động, trình độ
lao động và tổ chức lao động, trình độ lao động và tổ chức lao động khoa học,
tạo ra được sự kết hợp với các yếu tố sản xuất một cách hợp lý, là cơ sở để
giảm chi phí nhân công cũng như tránh tình trạng lãng phí sức lao động; giờ
máy làm việc… Nhân tố này sẽ tác động tới hiệu quả làm việc của toàn doanh
nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí quản lý góp phần làm
tăng lợi nhuận của DN.
13
SV: Vũ Thị Nguyên - Lớp: K42/11.01
Luận văn cuối khóa
* Nhân tố tổ chức quản lý sản xuất, tiêu thụ và tài chính.
Đây là nhân tố thể hiện rõ tính chủ quan của doanh nghiệp. Tổ chức tốt
việc quản lý sản xuất kinh doanh là cách thức tốt nhất nhằm hạ giá thành, tăng
lợi nhuận. Điều này được biểu hiện trong quá trình quản lý chi phí của DN: từ
chi phí NVL, chi phí nhân công, chi phí sản xuất chung, chi phí bán hàng và
quản lý DN, nếu không quản lý tốt những khoản chi này sẽ dẫn tới tình trạng
lãng phí và làm tăng giá thành sản phẩm.
Quản lý tổ chức sử dụng nguồn vốn cũng rất quan trọng. Vốn đầu tư cho
từng khâu phải hợp lý, từ khâu dự trữ vật tư, tồn kho sản phẩm tới quản lý các
khoản phải thu, phải trả, khoản vay nợ ngân hàng Thực hiện tốt những vấn đề
trên sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp và ngược lại, góp phần
ổn định tình hình sản xuất kinh doanh nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nhóm nhân tố khách quan.
* Nhân tố giá bán.
Giá bán được xác định bởi quy luật cung cầu trên thị trường và mang
tính khách quan. Trong trường hợp các nhân tố khác không đổi, thì việc thay
đổi giá bán cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu và lợi nhuận. Để đảm
bảo được doanh thu và lợi nhuận, doanh nghiệp phải có những quyết định về
giá cả. Giá cả phải bù đắp chi phí đã tiêu hao và tạo nên lợi nhuận thỏa đáng
để thực hiện tái sản xuất mở rộng. Do vậy việc xác định một chính sách giá cả
hợp lý là rất quan trọng.
* Nhân tố khoa học công nghệ.
Là nhân tố tác động mạnh mẽ tới hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật là phương thức tốt nhất để
nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí hạ giá thành nâng
cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Ngược lại, nếu không áp dụng thì sản phẩm
của doanh nghiệp không bắt kịp được thị trường, chất lượng không được như
14
SV: Vũ Thị Nguyên - Lớp: K42/11.01

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét