Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

247470

A – Mở đầu :
Tiền tệ xuất hiện khi người ta trao đổi hàng hoá với nhau qua một vật
ngang giá chung. Đó cũng là lúc con người lại chuyển từ nền kinh tế tự cấp tự
túc sang nền kinh tế tiền tệ. Tiền tệ đáp ứng đòi hỏi của người tiêu dùng và đặc
biệt nó còn rất tiện lợi. Cùng với sự phát triển của quá trình sản xuất và lưu
thông tiền tệ thì nhu cầu gửi tiền bắt đầu được hình thành. Để đáp ứng được nhu
cầu của người gửi tiền, các tổ chức có nhận tiền gửi đã đưa ra nhiều loại tiền gửi
khác nhau để người gửi tiền lựa chọn sao cho phù hợp với mục đích, tính chất
nguồn vốn của mình. Trong thực tiễn kinh doanh ngân hàng, các tổ chức tín
dụng thường cung cấp cho khách hàng những sản phẩm tiền gửi như : tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm. Tuy nhiên, khách hàng
không chỉ quan tâm tới lãi suất của khoản tiền mà mình đã gửi mà họ còn đặc
biệt quan tâm tới mức độ an toàn cho chính những khoản tiền của mình khi mà
họ đem gửi dưới một trong các hình thức nói trên vào các tổ chức tín dụng nói
chung và trong các ngân hàng thương mại nói riêng.
Bảo hiểm tiền gửi hiện nay có một vị trí, vai trò quan trọng đối với hoạt
động của các tổ chức tín dụng trong đó có hoạt động của các ngân hàng thương
mại, đây là một trong những biện pháp bảo đảm an toàn cho hoạt động ngân
hàng và hệ thống ngân hàng. An toàn trong kinh doanh là yêu cầu bức thiết đối
với hoạt động của các ngân hàng thương mại. bảo hiểm tiền gửi được thành lập
trước hết là vì mục tiêu bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền khi có ngân hàng
nào đó bị phá sản. Ngân hàng tham gia vào cơ chế bảo hiểm tiền gửi hoặc được
Chính phủ tuyên bố chi trả bảo hiểm tiền gửi thì những người gửi tiền tại ngân
hàng phá sản đó có cơ hội được trả một phần hoặc toàn bộ số tiền gửi của mình.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là bảo hiểm tiền gửi sẽ làm cho tâm lý của người
gửi tiền không bị hoang mang, mất lòng tin và họ sẽ không nghĩ đến việc phải
vội vã rút tiền. Điều đó tránh được sự đổ vỡ mang tính dây chuyền có thể xảy ra
với hoạt động ngân hàng. Qua đó, bảo hiểm tiền gửi hướng tới một mục tiêu lớn
hơn đó là sự ổn định của cả hệ thống tài chính, nền kinh tế quốc dân.
B – Nội dung :
I – Phỏp luật hiện hành về bảo hiểm tiền gửi :
1. Phạm vi ỏp dụng :
Sau Quyết định 101/ QĐ - BTC, ngày 12/ 12/ 1997 Quốc hội đã ban
hành Luật các tổ chức tín dụng trong đó quy định “Tổ chức tín dụng có trách
nhiệm tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi; mức bảo toàn hoặc bẳo
hiểm tiền gửi do Chính phủ quy định” (Điều 17). Quy định này ra đời đã tạo cơ
sở pháp lý quan trọng cho sự ra đời của chế độ bảo hiểm tiền gửi mới ở nước ta.
Ngày 1/ 9/ 1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/ 1999/ NĐ - CP về bảo
hiểm tiền gửi trong đó quy định rõ mục đích, tính chất của bảo hiểm tiền gửi; đối
tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi, các loại tiền được bảo hiểm, phí bảo hiểm.
Tại điểm 2 Nghị định số 89/ 1999/ NĐ- CP, Chính phủ quy định “các tổ
chức tín dụng và tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được thực hiện thêm
một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng có nhận
tiền gửi của cá nhân phải tham gia bảo hiểm tiền gửi bắt buộc tại Tổ chức Bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam ”. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm thì tổ chức bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam có trách nhiệm thay tổ chức tín dụng trả các khoản tiền gửi đựơc
bảo hiểm cho người gửi tiền. Tổ chức tín dụng đã tham gia bảo hiểm tiền gửi
phải niêm yết công khai giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi tại trụ sở và các địa
điểm giao dịch đẻ người dân dễ thấy, dễ quan sát khi tới giao dịch, thực sự yên
tâm khi gửi tiền vào tổ chức tín dụng. Giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi là cam
kết của tổ chức bảo hiểm tiền gửi về việc sẽ trả tiền cho người gửi tiền khi tổ
chức tín dụng bị giải thể, phá sản.
Ngày 9/ 11/ 1999 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 218/ QĐ
-TTg về việc thành lập Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (Deposit Insurance
of Viet Nam - DIV), một tổ chức độc lập chuyên thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm
tiền gửi. Ngày 7/ 10/ 2000, Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam chính thức đi vào hoạt
động. Kể từ đây, hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam chính thức được áp
dụng rộng rãi cho hầu hết các loại hình tổ chức nhận tiền gửi và đựoc công nhận
là một trong những giải pháp tích cực nhằm bảo về quyền lợi người gửi tiền,
kiểm soát rủi ro hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng trên thị trường. Với
sự ra đời của Nghị định này, hoạt động bảo vệ người gửi tiền đã được nâng cao
một bước theo hướng chuyển từ hình thức “bảo vệ ngầm” sang “bảo vệ công
khai” trên có sở minh bạch hoá các vấn đề tài chính trong cơ chế thực thi bảo
hiểm tiền gửi. Những điểm mới trong chính sách pháp luật về bảo hiểm tiền gửi
liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau nhưng trước hết là việc mở rộng phạm
vi áp dụng bảo hiểm tiền gửi; chuyển từ cơ chế tham gia tự nguyện sang cơ chế
tham gia bắt buộc vào quan hệ bảo hiểm tiền gửi và đề cao vai trò hỗ trợ của tổ
chức bảo hiểm tiền gửi đối với các tổ chức nhận tiền gửi.
Sau những văn bản trên, còn có sự ra đời của nhiều văn bản khác nhằm
hoạn thiện hơn nữa khung pháp lý cho hoạt động bảo hiểm tiền gửi của các ngân
hàng, chẳng hạn như Nghị định 109/ 2005/ NĐ - CP của Chính phủ ngày 24/ 8/
2005 về sửa đổi bổ sung Nghị định số 89/ 1999/ NĐ - CP; Thông tư của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam số 03/ 2006/ TT – NHNN ngày 25/ 4/ 2006 hướng dẫn
thi hành Nghị định 89/ 1999/ NĐ - CP và Nghị định 109/ 2005/ NĐ - CP cảu
Chính Phủ. Ngoài ra còn một số văn bản quy định về quản lý tài chính đối với
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
Nội dung của các văn bản trên cho thấy chế độ bảo hiểm tiền gửi ở Việt
Nam đang được xây dựng theo hướng vừa phù hợp với điều kiện củaViệt Nam,
vừa đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng.
Theo các quy định hiện hành thì bảo hiểm tiền gửi là một loại hình bảo
hiểm phi thương mại, theo đó, ngân hàng thương mại nhận tiền gửi bằng đồng
Việt Nam của khách hàng là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư
nhân, công ty hợp danh thì bắt buộc phải tham gia đóng phí bảo hiểm tiền gửi
cho Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam theo quy định. Khi xảy ra sự kiện thì
Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sẽ có trách nhiệm thay ngân hàng thương
mại đó trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của các khách hàng gửi tiền ở ngân
hàng thương mại tham gia bảo hiểm đó.
Xét về tính chất, bảo hiểm tiền gửi ở nước ta là loại hình bảo hiểm bắt
buộc. Điều đó thể hiện ở chỗ, pháp luật về bảo hiểm tiền gửi có quy định cụ thể
các điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm mà các chủ thể tham gia quan hệ
bảo hiểm có nghĩa vụ phải thực hiện. Việc quy định bắt buộc tham gia bảo
hiểm tiền gửi đối với các tổ chức tín dụng được áp dụng ở nhiều quốc gia khác
trên thế giới như Mỹ, Đức.
2. Thủ tục đăng ký tham gia bảo hiểm tiền gửi (BHTG) :
Thụng tư 03/2000/TT – NHNN ngày 16/3/2000 của Ngõn hàng nhà
nước hướng dẫn thi hành nghị định số 89/1999/NĐ – CP qui định cỏc tổ chức
tham gia BHTG phải tiến hành đăng ký tham gia BHTG tại tổ chức BHTG tại
Việt Nam. Thời hạn hoàn tất thủ tục đăng ký tham gia BHTG khụng quỏ
30ngày kể từ ngày thụng tư này cú hiệu lực.
Đối với cỏc tổ chức được cấp giấy phộp hoạt động sau ngày thụng tư
03/2000/TT – NHNN cú hiệu lực thỡ phải hoàn tất thủ tục này trong 30 ngày
trước khi khai trương hoạt động.
Theo qui định của phỏp luật khi thực hiện việc đăng ký tham gia BHTG
thỡ tổ chức tham gia BHTG nộp hồ sơ đăng ký cho BHTG Việt Nam. Mỗi tổ
chức lập một bộ hồ sơ chung cho cả hội sở chớnh và cỏc chi nhỏnh phụ thuộc.
Hồ sơ đăng ký tham gia bao gồm:
- Phiếu đăng ký tham gia BHTG.
- Hồ sơ phỏp lý và hoạt động của tổ chức tham gia BHTG (bản sao cú
cụng chứng) gồm:
- Quyết định thành lập hoặc giấy phộp thành lập và hoạt động do cơ
quan nhà nước cú thẩm quyền cấp.
- Điều lệ tổ chức và hoạt động.
- Danh sỏch thành viờn Hội đồng quản trị, Tổng giỏm đốc (Giỏm đốc)
và ban kiểm soỏt.
- Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- Cỏc bỏo cỏo tài chớnh trong vũng 3 năm gần nhất (hoặc trong vũng
những năm gần nhất đối với những tổ chức mới thành lập dưới 3 năm) cú xỏc
nhận của cơ quan quản lý Nhà nước cú thẩm quyền hoặc một cơ quan kiểm
toỏn được Ngõn hàng nhà nước chấp thuận.
Riờng đối với tổ chức khụng phải là TCTD được phộp hoạt động ngõn
hàng cũn phải gửi kốm điều lệ hoặc quy chế tổ chức và hoạt động của đơn vị
chủ quản hoặc đơn vị mà mỡnh là thành viờn.
Tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt tham gia BHTG cú thể được phục
hồi trở lại quyền được bảo hiểm sau khi đó thực hiện cỏc nghĩa vụ đối với tổ
chức BHTG Việt Nam, và được cơ quan nhà nước cú thẩm quyền cú văn bản
cho phộp được phục hồi quyền nhận tiền gửi của cỏ nhõn đối với tổ chức đú.
Hồ sơ, thủ tục đăng ký tham gia bảo hiểm đối với cỏc tổ chức này cũng giống
như đối với cỏc tổ chức tham gia BHTG khỏc.
Trong vũng 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đăng ký tham gia BHTG,
BHTG Việt Nam cú trỏch nhiệm hoàn tất thủ tục đối với cỏc tổ chức tham gia
bảo hiểm, đồng thời cấp giấy chứng nhận BHTG cho cỏc tổ chức này.
Trong quỏ trỡnh hoạt động, nếu cú những thay đổi về nội dung hoạt
động được cấp cú thẩm quyền chấp thuận, tổ chức tham gia BHTG phải gửi
ngay cho BHTG Việt Nam để bổ sung hồ sơ tham gia bảo hiểm.
3. Phớ BHTG và việc thu nộp phớ BHTG:
Phớ BHTG là khoản tiền mà tổ chức tham gia bảo hiểm phải nộp cho tổ
chức nhận bảo hiểm để được bảo hiểm cho số tiền của khỏch hàng khi cú sự
kiện bảo hiểm.
Theo qui định của phỏp luật hiện hành, hàng năm tổ chức tham gia
BHTG phải nộp cho BHTG Việt Nam một khoản phớ bằng 0,15% tớnh trờn số
dư tiền gửi bỡnh quõn của cỏc loại tiền được bảo hiểm tại tổ chức tham gia
BHTG.
Số phớ bảo hiểm được tớnh và nộp 4 lần trong năm tài chớnh theo qui
định của Ngõn hàng nhà nước. Việc thu phớ phải được thực hiện theo quý và
được nộp vào ngày cuối của thỏng đầu quý tiếp theo. Tổ chức tham gia BHTG
nếu vi phạm thời hạn nộp phớ bảo hiểm theo qui định thỡ việc nộp đủ số phớ
cũn thiếu phải chịu phạt mỗi ngày nộp chậm bằng 0,1% số tiền nộp chậm. Nếu
sau thời gian nộp phớ 30ngày, tổ chức tham gia BHTG chưa nộp phớ BHTG kể
cả tiền phạt, tổ chức BHTG cú quyền yờu cầu của ngõn hàng nhà nước, kho
bạc nhà nước, TCTD nơi tổ chức tham gia BHTG mở tài khoản trớch tiền trờn
tài khoản của tổ chức đú để nộp phớ, tiền phạt. Trong trường hợp trờn tài
khoản của tổ chức tham gia BHTG khụng đủ số dư để thực hiện việc trớch nộp
trờn BHTG Việt Nam yờu cầu ngõn hàng nhà nước, kho bạc nhà nước, hoặc
TCTD trớch để nộp phớ BHTG trước và nộp tiền phạt sau, đồng thời thụng bỏo
bằng văn bản cho tổ chức tham gia BHTG yờu cầu nộp phần cũn thiếu.
Nếu quỏ thời hạn nộp phớ BHTG 90 ngày (kể cả ngày nghỉ cuối tuần và
ngày nghỉ lễ, Tết) theo qui định của phỏp luật mà tổ chức tham gia BHTG vẫn
khụng nộp đủ phớ BHTG thỡ tổ chức BHTG Việt Nam cú quyền:
- Ra quyết định chấm dứt BHTG và thụng bỏo trờn cỏc phương tiện
thụng tin đại chỳng.
- Đề nghị ngõn hàng nhà nước ra quyết định ngừng huy động tiền gửi cỏ
nhõn của tổ chức đú.
Trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị BHTG Việt Nam quyết
định chấm dứt BHTG, BHTG Việt nam sẽ tiếp tục chịu trỏch nhiệm chi trả bảo
hiểm đối với khoản tiền gửi được bảo hiểm trước ngày cú quyết định chấm dứt
BHTG và trỏch nhiệm này được thực hiện trong thời gian 180 ngày (kể cả
ngày nghỉ cuối tuần và ngày lễ, Tết) kể từ ngày cú quyết định chấm dứt BHTG;
Nếu trong thời gian đú, tổ chức tham gia BHTG bị cơ quan quản lý nhà nước
cú thẩm quyền tuyờn bố chấm dứt hoạt động và tổ chức đú mất khả năng thanh
toỏn. Số tiền bảo hiểm này bao gồm cả lói phỏt sinh tớnh đến thời điểm bị
tuyờn bố chấm dứt hoạt động.
Việc thu phớ bảo hiểm được thực hiện thụng qua hội sở của cỏc tổ chức
tham gia BHTG hoặc theo phương thức khỏc do BHTG Việt Nam và tổ chức
tham gia BHTG thoả thuận. Mức phớ 0,15% một năm trờn tổng số dư tiền gửi
bỡnh quõn của cỏc loại tiền gửi được điều chỉnh theo quyết định của Thủ tướng
Chớnh phủ trờn cơ sở đề nghị của tổ chức BHTG và ý kiến của ngõn hàng nhà
nước, Bộ tài chớnh.
Phớ bảo hiểm được quy định theo thụng lệ quốc tế và phải tuõn thủ
nguyờn tắc rủi ro càng cao thỡ mức thu phớ ỏp dụng càng cao và ngược lại.
Căn cứ để qui định mức phớ bảo hiểm chủ yếu dựa vào mức độ rủi ro của hoạt
động ngõn hàng, mức độ rủi ro của tổ chức tham gia BHTG và khả năng tài
chớnh của cỏc tổ chức BHTG. Ở một số nước đang phỏt triển mức phớ BHTG
được ỏp dụng thường tương đối cao, tuy vậy ở một số quốc gia cú hệ thống tài
chớnh lớn mạnh tỉ lệ này thấp hơn rất nhiều (vớ dụ: Ở Đài Loan là
0,015%/năm). Ở Mỹ, trước năm 1991, mức phớ ỏp dụng cho cỏc ngõn hàng là
như nhau. Nhưng từ năm 1991 trở lại đõy nước này đó chuyển sang thu phớ
theo xếp loại ngõn hàng, với nguyờn tắc ngõn hàng nào hoạt động yếu kộm
hơn, độ rủi ro lớn hơn thỡ ỏp dụng mức phớ bảo hiểm cao hơn và ngược lại,
ngõn hàng nào hoạt động cú hiệu quả hơn, độ rủi ro thấp hơn thỡ mức phớ boả
hiểm được ỏp dụng thấp hơn. Theo qui định của phỏp luật Việt Nam, mức phớ
bảo hiểm 0,15%/năm được ỏp dụng đồng bộ cho tất cả cỏc TCTD trờn toàn
quốc. Mức phớ ỏp dụng tương đối cao như vậy là do thực lực tài chớnh của tổ
chức BHTG Việt Nam chưa đủ mạnh và mới được thành lập khụng lõu, trong
khi đú khả năng quản trị rủi ro của cỏc tổ chức tham gia BHTG vẫn cũn thấp.
Mặt khỏc, do tớnh rủi ro cao và sự ổn định của hoạt động tớn dụng trong điều
kiện nền kinh tế mới chuyển đổi như Việt Nam là khụng thường xuyờn.
Tuy nhiờn, so với mức phớ ỏp dụng trờn thế giới thỡ mức phớ BHTG ở
Việt Nam là vừa phải và qua hoạt động giỏm sỏt của cỏc chi nhỏnh BHTG thỡ
cỏc tổ chức tham gia BHTG đều cú khả năng nộp phớ và hầu hết đều nộp đầy
đủ, kết quả kinh doanh của cỏc tổ chức này được cải thiện hơn cỏc năm trước,
số lượng tiền gửi được huy động cũng tăng cao.
4. Sự kiện bảo hiểm và việc chi trả BHTG:
Theo qui định của phỏp luật Việt Nam hiện nay, tổ chức BHTG sẽ cú
trỏch nhiệm chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tại tổ chức tham gia
BHTG khi tổ chức tham gia BHTG bị cơ quan Nhà nước cú thẩm quyền cú văn
bản chấm dứt hoạt động và tổ chức đú mất khả năng thanh toỏn.
Như vậy, sự kiện bảo hiểm trong BHTG được xỏc định dựa trờn cơ sở cú
đồng thời cả hai căn cứ: Cú văn bản chấm dứt hoạt động đối với TCTD của cơ
quan nhà nước cú thẩm quyền, và tổ chức đú mất khả năng thanh toỏn. Nếu
như TCTD mới chỉ trong tỡnh trạng cú nguy cơ mất khả năng chi trả nhưng
chưa đến mức đặt trong tỡnh trạng kiểm soỏt đặc biệt, TCTD sẽ được tổ chức
BHTG ỏp dụng biện phỏp hỗ trợ như:
- Cho vay hỗ trợ để chi trả tiền gửi được bảo hiểm.
- Bảo lónh cho cỏc khoản vay đặc biệt để cú nguồn chi trả tiền gửi được
bảo hiểm.
-Mua lại nợ trong trường hợp khoản nợ đú cú tài sản đảm bảo.
Khi cú sự kiện bảo hiểm xảy ra, BHTG Việt Nam cú trỏch nhiệm chi trả
số tiền được bảo hiểm cho những người gửi tiền tại cỏc tổ chức tham gia
BHTG, bao gồm cả gốc lẫn lói tớnh đến thời điểm cú sự kiện bảo hiểm nhưng
khụng vượt quỏ giới hạn số tiền bảo hiểm mà phỏp luật đó qui định là 30 triệu
đồng Việt Nam. Đối với số tiền gửi (gồm cả gốc lẫn lói) vượt quỏ mức tối đa
theo qui định sẽ được trả cho người gửi tiền trong quỏ trỡnh thanh lý tài sản
của tổ chức tham gia BHTG phự hợp với qui định của phỏp luật về phỏ sản.
Việc chi trả cỏc khoản tiền được bảo hiểm được thụng bỏo qua cỏc
TCTD hoặc theo thoả thuận với người gửi tiền, BHTG tiến hành chi trả cho
người gửi tiền khi cú đủ cỏc điều kiện sau:
Một là, người đú phải cú tờn trong danh sỏch được phờ duyệt.
Hai là, người đú phải cú giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hợp phỏp đối
với khoản tiền của mỡnh tại tổ chức tham gia BHTG cựng chứng minh như
nhõn dõn hoặc hộ chiếu.
Trường hợp người gửi tiền đỏnh mất cỏc giấy tờ như sổ tiết kiệm, chứng
chỉ tiền gửi cú ghi danh, giấy tờ cú giỏ, hộ chiếu, chứng minh thư thỡ việc
chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền được xử lý theo hướng dẫn của BHTG
Việt Nam.
Việc chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền được tiến hành theo trỡnh
tự, thủ tục như sau: Trong vũng 15ngày kể từ ngày cú văn bản chấm dứt hoạt
động nhận tiền gửi cỏ nhõn của ngõn hàng nhà nước, tổ chức tham gia BHTG
phải lập xong bảng kờ danh sỏch người gửi tiền tại tổ chức mỡnh và gửi cho
BHTG Việt Nam. Nhận được bảng kờ danh sỏch người gửi tiền, BHTG Việt
Nam cựng với tổ chức tham gia BHTG tiến hành kiểm tra bảng kờ danh sỏch
người gửi tiền và số tiền mà BHTG Việt Nam phải trả đối với từng người gửi
tiền. Sau khi thống nhất danh sỏch những người gửi tiền và tổng số tiền gửi
phải chi trả theo qui định. Hội đồng quản trị của BHTG Việt Nam phờ duyệt
làm cơ sở tổ chức triển khai việc chi trả.
Cơ quan BHTG phải thụng bỏo việc chi trả này trờn cỏc phương tiện
thụng tin đại chỳng, niờm yết danh sỏch người gừi tiền được chi trả tại trụ sở
chớnh, chi nhỏnh, văn phũng đại diện của cơ quan BHTG.
Khi đó hoàn tất cỏc thủ tục trờn, trong vũng 15 ngày, BHTG Việt Nam
tiến hành việc chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền đó đăng ký. Trường hợp
vỡ lý do khỏch quan, người được nhận tiền bảo hiểm cú thể uỷ quyền cho
người khỏc đến nhận. Người được uỷ quyền phải cú năng lực hành vi dõn sự
đầy đủ, phải xuất trỡnh giấy tờ uỷ quyền cú chữ ký xỏc nhận của cơ quan nhà
nước cú thẩm quyền theo phỏp luật Việt Nam, cựng với giấy chứng minh thư
và hộ chiếu. Nếu người gửi tiền xuất cảnh để định cư ở nước ngoài hoặc chết
thỡ BHTG Việt Nam sẽ tiến hành thủ tục chi trả theo sự uỷ quyền của chủ sở
hữu và theo qui định của phỏp luật Việt Nam về thừa kế tài sản.
Trờn thế giới, ở những nước phỏt triển cú nhiều nước cam kết trả toàn bộ
số tiền gửi của cỏ nhõn khi cú sự kiện bảo hiểm như ở Mờhicụ và Thổ Nhĩ Kỳ.
Cơ chế trả tiền bảo hiểm theo hạn mức thường ỏp dụng ở cỏc nước đang phỏt
triển, hệ thống ngõn hàng chưa lớn mạnh, hoạt động bảo hiểm cũng chưa thực
sự phỏt triển. Tuy vậy, việc chi trả bảo hiểm theo hạn mức là phương sỏch hiệu
quả nhất để người gửi tiền phõn tỏn rủi ro của mỡnh ở những ngõn hàng khỏc
nhau và như vậy, độ an toàn và tớnh bền vững của hệ thống ngõn hàng cũng sẽ
cao hơn.
5. Quyền và nghĩa vụ của cỏc chủ thể trong quan hệ BHTG:
Khi tham gia vào quan hệ BHTG, tổ chức BHTG cũng như cỏc tổ chức
tham gia BHTG được phỏp luật qui định một số quyền hạn và nghĩa vụ nhất
định. Theo Nghị định 89/1999/NĐ – CP của Chớnh phủ về BHTG và cỏc văn
bản hướng dẫn thi hành, BHTG cú chức năng bảo vệ quyền và lợi ớch hợp
phỏp của người gửi tiền, gúp phần duy trỡ sự ổn định của cỏc tổ chức tham gia
BHTG và sự phỏt triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngõn hàng. Nhiệm
vụ, quyền hạn của BHTG cũng được qui định khỏ chặt chẽ và thống nhất tại
Điều 5 Quyết định 218/1999/QĐ – TTg về việc thành lập BHTG Việt Nam
gồm cỏc nội dung:
- Thu phớ BHTG của cỏc tổ chức tham gia BHTG theo qui định.
- Chi trả cỏc khoản tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền trong
phạm vi mức bảo hiểm tối đa.
- Theo dừi, giỏm sỏt kiểm tra việc chấp hành cỏc quy định tại Nghị định
về an toàn trong hoạt động của cỏc tổ chức tham gia BHTG.
- Hỗ trợ cỏc tổ chức tham gia BHTG khi cú nguy cơ mất khả năng chi trả
nhưng chưa đến mức phải đặt trong tỡnh trạng kiểm soỏt đặc biệt.
- Tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG bị phỏ
sản.
- Kiến nghị với ngõn hàng nhà nước và cỏc cơ quan nhà nước cú thẩm
quyền về việc xõy dựng, sửa đổi, bổ sung cỏc chủ trương chớnh sỏch về
BHTG.
- Tuyờn truyền về BHTG đối với cụng chỳng, tổ chức tập huấn, đào tạo
và tư vấn vờ nghiệp vụ liờn quan đến BHTG.
- Hợp tỏc với cỏc tổ chức trong và ngoài nước nhằm tăng cường năng
lực hoạt động của BHTG Việt Nam và tổ chức BHTG thế giới.
Bờn cạnh việc qui định quyền hạn, nghĩa vụ của tổ chức BHTG, phỏp
luật hiện hành cũn phõn định trỏch nhiệm, quyền hạn của tổ chức tham gia
BHTG làm cơ sở cho hoạt động của cỏc tổ chức này khi tham gia vào quan hệ
bảo hiểm. Theo Điều 2 Nghị định 89/1999/NĐ – CP thỡ cỏc TCTD và cỏc tổ
chức khụng phải là TCTD cú nhận tiền gửi của cỏ nhõn bằng đồng Việt Nam
phải tham gia BHTG bắt buộc. Cỏc tổ chức tham gia BHTG phải niờm yết
cụng khai việc tham gia BHTG tại trụ sở và cỏc điểm giao dịch. Ngoài ra, cỏc
tổ chức tham gia BHTG cũn phải:
- Lập hồ sơ đăng ký tham gia BHTG tại cơ quan BHTG.
- Tiến hành nộp phớ BHTG đầy đủ và đỳng thời hạn theo qui định của
phỏp luật.
- Chấp hành cỏc qui định tại nghị định của Chớnh phủ về BHTG và cỏc
qui định về an toàn trong hoạt động tớn dụng, ngõn hàng.
- Khi xuất hiện sự kiện bảo hiểm, tổ chức tham gia BHTG cú trỏch
nhiệm lập hồ sơ gửi tới BHTG Việt Nam đề nghị chi trả tiền bảo hiểm theo
trỡnh tự, thủ tục mà phỏp luật qui định.
- Chịu trỏch nhiệm giải quyết cỏc vướng mắc của người gửi tiền về
những sai sút trong việc thực hiện chế độ hạch toỏn, chứng từ và lói suất
Như vậy, trong quan hệ BHTG cỏc chủ thể được phỏp luật qui định một
số quyền hạn và nghĩa vụ phỏp lý nhất định để trờn cơ sở đú thực hiện cỏc
hoạt động BHTG một cỏch chặt chẽ, linh hoạt, nhanh gọn và cú hiệu qủa cao.
II – Thực trạng bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, chiến lược phát triển kinh
tế – xó hội 2001 – 2010, phần đổi mới chính sách và kiện toàn hệ thống tài
chính – tiền tệ nhấn mạnh : “ Bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của thị
trường tài chính – tiền tệ trong toàn bộ nền kinh tế”.
Vào ngày 01.09.1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-
CP về BHTG, nhằm mục đích triển khai một cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích
của người gửi tiền và góp phần duy trỡ sự ổn định của các tổ chức tín dụng và
đảm bảo sự phát triển an toàn của ngành ngân hàng Việt Nam.
Và ngày 09.11.1999, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
218/1999/QĐ-TTg về việc thành lập BHTG Việt Nam.
BHTG là một nghiệp vụ rất mới, cần được hoàn thiện trong thực tiễn
hoạt động ngành Ngân hàng Việt nam. Tuy nhiên đối với các nền tài chính phát
triển trên thế giới thỡ đây là nghiệp vụ cổ điển. Thông qua việc nghiên cứu cơ
chế vận hành của BHTG các nước phát triển, chúng ta có thể vận dụng những
ưu điểm vào việc hoàn thiện hệ thống BHTG của nước nhà.
1. Vai trũ của BHTG đối với ngành ngân hàng và nền kinh tế :
- BHTG tạo lập và duy trỡ niềm tin của cụng chỳng vào ngành ngõn
hàng: Thụng qua việc bảo hiểm cú mức độ đối với tiền gửi của công chúng
trong hệ thống ngân hàng, đó tạo ra một cụng cụ đầu tư có rủi ro thấp, thích
hợp với những nhà đầu tư không mạo hiểm. Nhờ vào công cụ này mà hệ thống
ngân hàng thu hút được nguồn vốn tiết kiệm nhàn rỗi trong dân cư để thực hiện
được chức năng trung gian tài chính một cỏch tớch cực.
- BHTG giúp cho sự ổn định của hệ thống tài chính và ổn định tăng
trưởng kinh tế. Thông qua các quy định an toàn và cơ chế giám sát hoạt động
ngành ngân hàng, BHTG đó gúp phần nõng cao khả năng quản trị rủi ro, khả
năng điều hành ngành ngân hàng núi riờng và ngành tài chớnh núi chung. Với
nguồn lực là quỹ BHTG đủ khả năng can thiệp kịp thời khi tổ chức tham gia
BHTG lõm vào tỡnh trạng khú khăn, BHTG đó giỳp ngăn chận và cô lập hiệu
ứng rút tiền hàng loạt và sụp đổ của hệ thống ngân hàng khi một vài tổ chức
ngõn hàng gặp rắc rối.
- BHTG là nhõn tố cực kỳ quan trọng trong việc duy trỡ niềm tin của
cụng chỳng vào hệ thống ngõn hàng .
Ngày nay, BHTG có thể đóng một vai trũ khiờm tốn hơn trong nền kinh
tế vỡ thành quả của bàn tay hữu hỡnh của Chớnh phủ trong việc can thiệp vào
nền kinh tế thị trường. Thị trường tài chính thế giới hiện nay trong nhiều biểu
hiện khác nhau đó trở nờn bất ổn hơn nhiều so với trước đây. Tác động của
tính bất ổn này đối với các tổ chức tín dụng có thể không thấy được hết bởi
triển vọng lói suất thấp và ổn định, cũng như tăng trưởng kinh tế ổn định và
bền vững. Ngoài ra, thu nhập cao từ thị trường chứng khoán làm cho việc gửi
tiền ngân hàng trở nên kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư và làm giảm giá trị
thực tế của BHTG. Nhiều ngân hàng đó giảm thiểu cỏc rủi ro mà họ đó đối đầu
trong quá khứ. Nghiệp vụ quản trị rủi ro lói suất đó được hoàn thiện; và với
việc đa dạng hoá hoạt động, các ngân hàng nói chung đó giảm bớt tỷ trọng
doanh thu từ kinh doanh chờnh lệch lói suất. Số lượng ngân hàng phá sản đó
giảm đi nhiều: tính riêng nền kinh tế Mỹ chỉ có 16 ngân hàng mua BHTG phá
sản trong giai đoạn từ năm 1995 đến nay so với mức vài trăm ngân hàng phá
sản mỗi năm trong giai đoạn 1940 – 1980.
Với số lượng ngân hàng sáp nhập ngày càng tăng, việc giảm thiểu rủi ro
cho người gửi tiền thực hiện khó khăn hơn: Trước đây người ta có thể chia ra
gửi tại nhiều ngân hàng để phân tán tiền gửi, nay cơ hội đó không dễ thực hiện.
Và như vậy, tỷ trọng tiền gửi được bảo hiểm so với tổng tiền gửi ngân hàng
đang ngày càng giảm đi. Điều này gây ra hậu quả xấu cho ngành ngân hàng là
người gửi tỡm cỏch rỳt tiền ra khỏi ngõn hàng đầu tư vào lĩnh vực khác hoặc
tiêu dùng.
2. Thực trạng BHTG tại Việt Nam :
Hiện nay, thị phần huy động của các ngân hàng thương mại trong nước
chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 90% và vẫn giữ vai trò chủ đạo trong cung cấp các
dịch vụ truyền thống là huy động vốn và cho vay. Song, đi cùng với những cái
lợi đó thì các ngân hàng thương mại cũng sẽ phải đứng trước rất nhiều thách
thức. Các ngân hàng thương mại sẽ phải cạnh tranh với những đối thủ mạnh hơn
rất nhiều, cũng như phải đối mặt với rủi ro khủng hoảng, các “cú sốc” kinh tế tài
chính khu vực và trên thế giới lan truyền ; mất dần lợi thế về khách hàng và kênh
phân phối, nhất là từ sau năm 2010, khi những phân biệt về huy động vốn, sản
phảm dịch vụ bị loại bỏ. Trước thực tế đó, các ngân hàng phải tự hoàn thiện và
bảo vệ mình để có thể phát triển, cạnh tranh lành mạnh. Một trong những biện
pháp đó là việc thực hiện pháp luật bảo hiểm tiền gửi để không những bảo vệ
quyền lợi của chính mình mà còn bảo vệ quyền lợi của khách hàng.
Theo một số loại hình bảo hiểm, thì người đóng phí bảo hiểm thông
thường là người thụ hưởng các quyền lợi bảo hiểm. Tuy vậy, bảo hiểm tiền gửi
được hình thành dựa vào cơ chế ba bên : tổ chức bảo hiểm tiền gửi tổ chức tham
gia bảo hiểm tiền gửi người gửi tiền ; theo đó, người đóng phí bảo hiểm không
đồng thời là người thụ hưởng các quyền lợi bảo hiểm. Theo quy định của pháp
luật hiện nay thì người được hưởng quyền lợi bảo hiểm tại các tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi nói chung và tại các ngân hàng thương mại nói riêng là cá
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân,và công ty hợp danh. Đây
chính là điểm mở rộng đối với đối tượng này so với quy định của Nghị định 89/
1999/ NĐ - CP. Điều này chứng tỏ được rằng nhà nước trong giai đoạn mới cũng
đã nhận thức được tầm quan trọng của việc không chỉ nên bảo hiểm tiền gửi của
các nhân mà cũng sẽ bảo hiểm tiền gửi của các tổ chức khác để đảm bảo đựơc
các giao dịch thanh toán trong kinh doanh của các tổ chức đó, đặc biệt là trong
thời điểm nước ta đang hội nhập kinh tế và các doanh nghiệp đang bị cuốn vào
cơn lốc cạnh tranh rất lớn. Việc mở rộng các đối tượng được hưởng quyền lợi
bảo hiểm khi ngân hàng gặp rủi ro đã gop phần làm cho các ngân hàng có thể
kinh doanh tốt hơn khi mà không chỉ các cá nhân yên tâm khi gửi các khoản tiền
của mình tại các ngân hàng thương mại mà còn có cả sự tham gia của các tổ
chức, doanh nghiệp.
Trong thời gian gần đây, chúng ta có thể nhìn thấy rõ sự phát triển ngoạn
mục của hệ thống các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần.
Hệ thống các ngân hàng thương mại phát triển nhanh, mạnh cả về quy mô hoạt
động và tốc độ tăng trưởng. Hầu hết các đơn vị đầu tư hệ thống công nghệ thông
tin hiện đại trong các hoạt động kinh doanh đã mang lại hiệu quả, nâng cao uy
tín, hình ảnh đơn vị, đáp ứng yêu cầu phát triển, hội nhập. Tuy nhiên, bên cạnh
sự phát triển ngoạn mục đó thì ngân hàng thương mại vẫn mắc phải một số bấp
cập mà hầu hết các ngân hàng đều chưa thực sự quan tâm thuyết phục, một trong
số đó là việc thực hiện quy định của Nhà nước về tính và nộp phí bảo hiểm tiền
gửi.
Các ngân hàng thương mại thường hay gặp những sai sót trong cách tinh
phí. Theo quy định, các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trong đó có các ngân
hàng thương mại có nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm tiền gửi bốn kỳ trong năm, định
kỳ hàng quý với mức phí 0,15% một năm, tính trên toàn bộ số dư bình quân
được bảo hiểm. Căn cú đối tượng tiền gửi được bảo hiểm theo quy định của
Chính phủ và hướng dẫn tính, nộp phí bảo hiểm tiền gửi của Bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam (DIV), các ngân hàng thương mại tổ chức hạch toán kế toán và ứng
dụng phần mềm tuỳ thuộc điều kiện của mỗi đơn vị để tính phí một cách nhanh
chóng, đơn giản. Thế nhưng, việc triển khai thực hiện tính và nộp phí bảo hiểm
tiền gửi tại một số ngân hàng thương mại thời gian qua chưa được quan tâm
đúng mức, thậm chí được xem như là công việc hoàn thiện sau, mặc dù đã qua 8
năm thực hiện. Trong đó, nhiều ngân hàng thương mại từng được các đoàn kiểm
tra của DIV kiến nghị khắc phục chỉnh sửa tại đợt kiểm tra trước đấy, nhưng việc
nộp thừa, thiếu phí vẫn tiếp tục xảy ra.
Qua đợt kiểm tra mới đây đối với các ngân hàng thương mại cổ phần có
trụ sở chính tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy, 2/ 3 số đơn vị tính
và nộp thừa phí, có đơn vị số phỉ nộp thừa lên tới trên tỉ đồng. Nguyên nhân chủ
yếu là do các đơn vị chưa xác định đúng đối tượng tiền gửi được bảo hiểm và
không loại trừ đối tượng không được bảo hiểm. Điều này xuất phát từ việc ngay
từ đầu các đơn vị đã chưa thực sự quan tâm tới việc tổ chức hạch toán kế toán
tiền gửi tiết kiệm của khách hàng là cá nhân, tiền gửi của tổ chức tín dụng, tổ
chức kinh tế một cách thống nhất, đúng quy định của của Ngân hàng Nhà nước
tại Quyết định 479/ 2004/ QĐ - NHNN và Quy chế tiền gửi tiết kiệm tại Quyết
định số1160/2004/QĐ-NHNN.
Đồng thời, chưa chú trọng việc tổ chức hạch toán nhóm tiền gửi thuộc đối tượng
tiền gửi được bảo hiểm. Từ đó dẫn đến việc tính phí cho cả số dư tiền gửi của tổ
chức tín dụng, tổ chức kinh tế, tiền gửi bằng ngoại tệ là những đối tượng không
được bảo hiểm, làm tăng chi phí không đáng có cho đơn vị, giảm đáng kể nguồn
vốn trong thời gian dài mà không được phát hiện.
Một thách thức khac mà các ngân hàng thương mại cổ phần đang
phải tìm cách vượt qua, đó là trong điều kiện gia tăng một số lượng đáng kể các
chi nhánh, địa điểm giao dịch mở ra, thì việc tìm kiếm, bố trí nguồn nhân lực
lành nghề, phù hợp và ứng dụng kịp thời phần mềm cho hoạt động nói chung và
cho công tác thống kê, báo cáo cũng như tính phí là việc làm khó khăn.
Xung quanh việc tính và nộp phí BHTG, đó nhiều năm nay các tổ chức
tham gia BHTG có ý kiến với cơ quan chức năng sớm hoàn thiện, đưa cơ chế
chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động này đi vào cuộc sống, phù
hợp với thực tế.

Hầu hết các đơn vị muốn sự minh bạch, công bằng trong chính sách
BHTG, rằng họ phải nhận được lợi ích từ phía tổ chức bảo hiểm tiền gửi, tương
xứng với nghĩa vụ đóng góp phí BHTG, như được cảnh báo sớm rủi ro, được hỗ
trợ tài chính khi cần thiết Những đơn vị hoạt động lành mạnh không thể đánh
đồng cùng với đơn vị yếu kém, với mức phí BHTG đồng hạng là 0,15%/năm
như hiện nay. Hầu như các tổ chức tham gia BHTG đều thống nhất thu phí
BHTG theo mức độ rủi ro và có những tiêu chí đánh giá, xếp hạng phù hợp,
chính xác.

Những tồn tại, bất cập trong việc thực hiện chính sách pháp luật về
BHTG, những yêu cầu tất yếu khách quan xuất phát từ thực tế hoạt động BHTG,
đũi hỏi cấp thiết phải cú cơ sở pháp lý cao nhất là Luật Bảo hiểm tiền gửi, đồng
bộ, nhất quán với các luật khác liên quan.

Trên cơ sở pháp lý của luật, mọi hành vi hoạt động của tổ chức, cá nhân
liên quan đến hoạt động BHTG được điều chỉnh kịp thời, nâng cao trách nhiệm,
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mỗi chủ thể tham gia, đặc biệt bảo vệ tốt hơn
quyền lợi của người gửi tiền.

Hiện nay, Luật về Bảo hiểm tiền gửi đó được đưa vào chương trỡnh xõy
dựng của Quốc hội cuối năm 2008. Khi dự luật này được phê chuẩn và ban hành,
quyền lợi của người gửi tiền được bảo vệ triệt để và đầy đủ hơn bởi chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức BHTG được mở rộng, cụ thể và rừ ràng.

Nhưng dù ở mức nghị định hoặc cao hơn là luật, thỡ phỏp luật về BHTG
cũng đều công bằng và mỗi chủ thể là tổ chức, cá nhân tham gia đều có nghĩa vụ
thực hiện theo quy định.
III – Đánh giá thực trạng bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam :
1. Những mặt đạt được:
+ BHTG Việt Nam là cơ quan nhà nước chuyên trách lập ra theo luật các
tổ chức tín dụng để thực hiện việc tạo lập và củng cố niềm tin công chúng vào
ngành ngân hàng, là cơ quan kiểm tra đảm bảo sự an toàn của hệ thống tài
chính. Việc tạo lập BHTG Việt Nam thể hiện quyết tâm của Chính phủ sử dụng
công cụ thị trường trong việc thiết lập môi trường an toàn cho các hoạt động
ngân hàng và bỡnh ổn thị trường.
+ Quan điểm thực hiện BHTG bắt buộc có tác dụng tốt trong việc nâng
cao tính an toàn của công cụ đầu tư bằng tiền gửi vào ngân hàng, có lợi ích
thiết thực cho người gửi tiền và cho cả hệ thống ngân hàng.

+ Đối tượng chi phối của BHTG không phân biệt tổ chức tín dụng trong
nước hay chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt nam, không phân biệt người
cư trú và người không cư trú. Điều này thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong
việc đưa ngành ngân hàng Việt Nam hội nhập vào cỏc chuẩn mực tài chớnh
quốc tế.
+ Vốn nhàn rỗi của quỹ BHTG được đầu tư vào các chứng khoán chính
phủ và doanh nghiệp nhà nước có rủi ro thấp, tính thanh khoản cao thể hiện
mức độ cẩn trọng của nghiệp vụ đầu tư và qũy BHTG thực sự phục vụ cho lợi
ích của người gửi tiền.
2. Những mặt hạn chế và kiến nghị:
+ Theo quy định hiện nay thỡ 88% nguồn thu phớ BHTG trong ba năm
đầu hoạt động của BHTG Việt Nam sẽ được tính vào quỹ dự phũng nghiệp vụ,
tỷ lệ này sẽ được điều chỉnh theo xu hướng tăng trong những năm sau đó. Như
vậy, hoàn toàn không có một chỉ tiêu về số dư pháp định của quỹ BHTG,
không có qui định khống chế độ lớn của quỹ dự phũng nghiệp vụ. Do đó, đề
nghị khống chế độ lớn của quĩ dự phũng nghiệp vụ, vỡ theo nguyờn tắc chung
về bảo hiểm thỡ quỹ dự phũng nghiệp vụ phải cú mối tương quan chặt chẽ với

Xem chi tiết: 247470


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét