Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng vay tài sản

Qua sự phân tích ở trên cho thấy, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm có
ý nghĩa rất quan trọng, một mặt các biện pháp này bảo vệ quyền lợi của các bên,
tạo điều kiện cho bên có quyền có thể chủ động hưởng quyền dân sự trên thực
tế. Mặt khác, nó bảo đảm sự ổn định của các quan hệ nghĩa vụ, tránh được các
tranh chấp phát sinh từ việc không thực hiện hoặc có thực hiện nhưng không đầy
đủ nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ . Chính vì vậy, pháp luật qui định các biện pháp
bảo đảm và cho phép các bên có thể thoả thuận, đưa ra các biện pháp bảo đảm
phù hợp cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng.
Vậy bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là gì? Theo nghĩa khách quan,
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là: Tổng hợp các qui định pháp luật do Nhà
nước ban hành và bảo đảm thực hiện trong đó qui định điều kiện, trình tự, thủ
tục, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Còn theo nghĩa chủ quan, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là: Sự thoả thuận
giữa các bên, theo đó bên có nghĩa vụ sẽ dùng tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của
mình hoặc của người khác nếu người đó đồng ý, để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
trước bên có quyền. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể do
pháp luật qui định hoặc do các bên thoả thuận áp dụng trong phạm vi pháp luật
cho phép.
Về mặt bản chất, biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là biện
pháp mang tính chất dự phòng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ. Ngoài
ra, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự do pháp luật qui định hay
do các bên thoả thuận còn có tính chất bắt buộc đối với các bên trong giao dịch.
* Đặc điểm của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
- Đối tượng của biện pháp bảo đảm là tài sản (trừ biện pháp tín chấp)
Quan hệ nghĩa vụ dân sự là những quan hệ mang tính tài sản, do đó đối
tượng của biện pháp bảo đảm trong các quan hệ này không thể là quyền nhân
thân. Quyền nhân thân là quyền gắn liền với mỗi cá nhân, đó là quyền không thể
tách rời và chuyển giao cho người khác được. Ví dụ: Trong quan hệ vay nợ, lợi
ích của bên cho vay sẽ không được bảo đảm khi tài sản bảo đảm là quyền nhân
5
thân của người vay (như quyền đối với hình ảnh). Bởi vì, khi có sự vi phạm
nghĩa vụ người cho vay không thể đem quyền về hình ảnh ra xử lý để thu hồi nợ.
Hơn nữa, không thể dùng quyền nhân thân để thay thế quyền tài sản, quyền tài
sản luôn bị chi phối bởi qui luật giá trị (qui luật ngang giá) một tài sản bị mất
hoặc giảm sút giá trị chỉ có thể bù đắp, thay thế bằng một tài sản khác. Quyền và
lợi ích của các bên trong quan hệ chỉ có thể bảo đảm bằng các lợi ích vật chất.
Do đó đối tượng của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chỉ có thể là tài sản.
Tài sản bảo đảm có thể là vật, vật hiện có hoặc hình thành trong tương lai,
giấy tờ có giá được bằng tiền, quyền tài sản … những tài sản này phải thuộc sở
hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch.
- Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là biện pháp mang tính
chất bổ sung cho nghĩa vụ chính.
Khi giao kết hợp đồng, yếu tố đầu tiên để đạt sự thoả thuận, giao kết hợp
đồng là sự tin tưởng, tín nhiệm của hai bên đối với nhau. Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện hợp đồng có thể có rất nhiều rủi ro, bất ngờ nảy sinh mà các bên
hoàn toàn không dự liệu trước được, dẫn tới vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng.
Do đó, một hợp đồng được giao kết không chỉ hoàn toàn dựa trên cơ sở lòng tin
và sự tín nhiệm mà cần phải tìm cơ sở cho lòng tin đó, cơ sở đó là bên có nghĩa
vụ sẽ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng chính tài sản của mình. Các biện pháp
bảo đảm chỉ được đặt ra khi các bên tham gia giao dịch cần bảo vệ lợi ích chính
đáng của mình, đó là các biện pháp bổ sung cho thực hiện nghĩa vụ chính.
- Các biện pháp bảo đảm được thiết lập trên cơ sở thoả thuận (trừ trường
hợp pháp luật có qui định khác).
Trong một giao dịch dân sự, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
chỉ có thể phát sinh khi các bên có thoả thuận, pháp luật dân sự không qui định
một cách bắt buộc, cứng nhắc biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ này phải áp
dụng cho một giao dịch dân sự cụ thể nào đó. Việc lựa chọn các biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trong các giao dịch dân sự hoàn toàn phụ thuộc vào sự
thoả thuận của các bên trong phạm vi pháp luật cho phép. Tuy nhiên, trong quan
6
hệ hợp đồng, có những trường hợp mà pháp luật qui định bắt buộc phải có biện
pháp bảo đảm. Ví dụ: Hợp đồng cho vay mà bên vay là Ngân hàng Nhà nước,
biện pháp bảo đảm tiền vay là biện pháp thế chấp. Nhưng dù pháp luật có qui
định người vay phải có thế chấp thì quyền thoả thuận của các bên cũng không hề
mất đi, các bên có thể cùng nhau thoả thuận về đối tượng, phương thức xử lý tài
sản thế chấp …
- Phạm vi bảo đảm của các nghĩa vụ không vượt quá phạm vi của nghĩa vụ
chính.
Điều 319 Bộ Luật Dân Sự 2005 (BLDS 2005) qui định “nghĩa vụ dân sự
có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thoả thuận hoặc qui định của
pháp luật. Nếu không có thoả thuận hoặc pháp luật không qui định phạm vi bảo
đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa vụ bồi thường thiệt
hại”. Nghĩa vụ được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ có thể là nghĩa vụ hiện tại
hay nghĩa vụ có điều kiện. Dù là nghĩa vụ nào đi chăng nữa thì giới hạn của bảo
đảm luôn là toàn bộ nghĩa vụ.
Các bên trong quan hệ có thể thoả thuận phạm vi bảo đảm nhưng thoả
thuận của các bên chỉ giới hạn trong toàn bộ nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ.
Phạm vi bảo đảm không thể vượt qua nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Nếu vượt
quá có nghĩa là vi phạm pháp luật dân sự. Và sự thoả thuận của các bên không
được pháp luật công nhận, biện pháp bảo đảm sẽ vô hiệu.
Một yếu tố nữa chi phối phạm vi bảo đảm đó là tính không phụ thuộc vào
qui luật giá trị. Trong thực tế, cho dù người có nghĩa vụ đưa ra một tài sản bảo
đảm có giá trị lớn hơn nhiều so với giá trị nghĩa vụ được bảo đảm thì các bên
cũng không thể thoả thuận phạm vi bảo đảm bằng với giá trị tài sản. Bởi người
có nghĩa vụ chỉ phải thực hiện nghĩa vụ đã xác định.
- Xử lý tài sản bảo đảm: Tài sản bảo đảm chỉ được đưa ra xử lý khi có sự
vi pham nghĩa vụ ( Trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có
quy định khác ).
7
Bên có nghĩa vụ được coi là có sự vi phạm nghĩa vụ khi họ không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình gây ra thiệt hại cho bên có
quyền. Biện pháp bảo đảm là biện pháp có chức năng dự phạt, đây là chức năng
quan trọng, chức năng dự phạt có ý nghĩa dự báo trước hậu quả bên có nghĩa vụ
phải chịu khi vi phạm nghĩa vụ. Hậu quả đó là tài sản bảo đảm cho việc thực
hiện nghĩa vụ được đưa ra xử lý. Tài sản bảo đảm sẽ được xử lý theo thoả thuận
của các bên, nếu các bên không có thoả thuận thì tài sản sẽ được xử lý theo qui
định pháp luật. Khi nghĩa vụ chính được thực hiện, tài sản bảo đảm sẽ được
hoàn trả cho bên bảo đảm, biện pháp bảo đảm đương nhiên chấm dứt.
Các qui định về biện pháp bảo đảm giúp các bên tin tưởng vào nhau, thúc
đẩy giao lưu dân sự phát triển. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, các qui
định về biện pháp bảo đảm ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn … Hiện nay
trong hệ thống pháp luật hầu hết các nước đều có qui định các biện pháp bảo
đảm như: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh …
1.1.2 Các hình thức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
Điều 318 BLDS 2005 qui định các biện pháp bảo đảm bao gồm: cầm cố,
thế chấp, bảo lãnh, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, tín chấp. So với BLDS 1995,
BLDS 2005 có một số qui định mới: Biện pháp tín chấp được tách ra thành một
biện pháp bảo đảm độc lập, biện pháp phạt vi phạm không được qui định là biện
pháp bảo đảm. Nói cách khác, theo qui định BLDS 2005 các biện pháp bảo đảm
có hai hình thức thể hiện đó là: Biện pháp bảo đảm đối vật và biện pháp bảo
đảm đối nhân.
*Bảo đảm đối vật
Điểm khác biệt cơ bản giữa hai hình thức bảo đảm đối vật và bảo đảm đối
nhân là: Trong biện pháp bảo đảm đối vật bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ
dân sự bằng biện pháp bảo đảm mang tính chất tài sản. Bên có quyền có thể yêu
cầu hoặc cùng với bên có nghĩa vụ hoặc người thứ ba thoả thuận về bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ bằng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản .
8
Hai biện pháp bảo đảm đối vật điển hình đó là cầm cố và thế chấp tài sản.
Điều 342 BLDS 2005 qui định “thế chấp tài sản là việc một bên dùng tài sản
thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên kia mà không
có sự chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp”. Điều 326 BLDS 2005 qui
định “Cầm cố tài sản là việc một bên giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình
cho bên kia để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”.
Yếu tố tài sản là điểm khác biệt giữa hai hình thức bảo đảm đối nhân và
bảo đảm đối vật. Trong bảo đảm đối vật, bên có nghĩa vụ có thể dùng tài sản
thuộc sở hữu của mình hoặc của người thứ ba để cầm cố hoặc thế chấp cho bên
có quyền.
* Bảo đảm đối nhân
Trong hình thức bảo đảm đối nhân, nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đựợc
bảo đảm bằng việc thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba.
Điển hình của hình thức bảo đảm đối nhân đó là biện pháp tín chấp
trong quan hệ tín dụng và biện pháp bảo lãnh. Biện pháp bảo đảm bằng tín chấp
là biện pháp bảo đảm dựa trên cơ sở niềm tin, uy tín của các bên trong quan hệ.
Bên có nghĩa vụ có thể bằng uy tín của mình hoặc của người thứ ba để có được
sự tin tưởng của bên có quyền. Các bên trong quan hệ cũng không cần thoả
thuận về việc bên có nghĩa vụ phải bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình bằng
một tài sản cụ thể nào cả. Điều 361 BLDS 2005 quy định “Bảo lãnh là việc
người thứ ba cam kết với người có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ nếu đến hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc không thực
hiện đúng nghĩa vụ”.
Sự phân biệt giữa hai hình thức bảo đảm này tạo điều kiện thuận lợi và dễ
dàng cho các bên khi lựa chọn biện pháp bảo đảm phù hợp cho từng giao dịch
dân sự.
1.2 Khái quát chung về thế chấp tài sản
1.2.1 Khái niệm, đăc trưng của biện pháp thế chấp tài sản
* Khái niệm biện pháp thế chấp tài sản
9
Trong đời sống sinh hoạt và hoạt động sản xuất kinh doanh, nhu cầu về
vốn là một nhu cầu cần thiết. Do đó, quan hệ vay tài sản là một quan hệ không
thể thiếu và tương đối phổ biến. Quan hệ vay tài sản là loại quan hệ chứa đựng
rất nhiều rủi ro, ảnh hưởng lợi ích của các bên trong quan hệ. Vì vậy, khi xác lập
quan hệ này, điều đầu tiên các bên quan tâm đó là lợi ích của mình sẽ được bảo
đảm như thế nào và trong trường hợp này, thế chấp tài sản được coi là chiếc cầu
nối không thể thiếu được, lợi ích của bên có quyền sẽ được bảo đảm bởi tài sản
thế chấp của bên có nghĩa vụ.
Do yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh mà việc giao tài sản bảo
đảm cho bên có quyền nắm giữ không những ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất
kinh doanh của bên có nghĩa vụ mà quyền lợi của bên có quyền cũng không
được bảo đảm một cách tốt nhất. Vấn đề đặt ra là lựa chọn biện pháp bảo đảm
nào vừa bảo đảm lợi ích của bên có quyền và vừa duy trì được sản xuất kinh
doanh, khả năng trả nợ được bảo đảm ở mức độ cao. Biện pháp thế chấp là biện
pháp có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên. Bên thế chấp không phải giao tài
sản thế chấp cho bên có quyền mà chỉ chuyển giao giấy tờ chứng nhận quyền tài
sản và giấy tờ khác là điều kiện chuyển nhượng tài sản cho bên nhận thế chấp.
Mặc dù bên thế chấp vẫn là người quản lý tài sản nhưng không thể định đoạt tài
sản vì giấy tờ pháp lý để giao dịch, chứng minh quyền sở hữu tài sản đó, bên có
quyền đang nắm giữ.
Trong các quan hệ tín dụng, biện pháp thế chấp có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, bởi vì ngân hàng sẽ chỉ cấp tín dụng cho khách hàng nếu họ có tài sản thế
chấp.
Từ sự phân tích ở trên có thể hiểu, thế chấp tài sản là sự thoả thuận của
các bên hoặc theo qui định pháp luật. Theo đó bên có nghĩa vụ dùng tài sản của
mình hoặc của người thứ ba để bảo đảm nghĩa vụ nhưng không chuyển giao tài
sản cho bên có quyền.
Pháp luật dân sự hiện hành qui định “Thế chấp tài sản là việc bên thế
chấp dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
10
đối với bên nhận thế chấp và không chuyển giao tài sản cho bên nhận thế chấp”
(Điều 342 BLDS 2005 ).
Cụ thể, trong quan hệ vay tài sản, thế chấp tài sản bảo đảm nghĩa vụ trả nợ, có
thể hiểu là việc bên vay đem tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm cho
khoản vay và không chuyển giao tài sản đó cho bên vay.
* Đặc trưng của biện pháp thế chấp
- Thứ nhất: không có sự chuyển giao tài sản.
Đây là một đặc trưng riêng biệt của biện pháp thế chấp. Trong thế chấp tài
sản, bên thế chấp không phải chuyển giao tài sản cho bên nhận thế chấp mà vẫn
trực tiếp nắm giữ tài sản đó, bên thế chấp chỉ phải chuyển giao các giấy tờ pháp
lý (như giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản). Trong một số trường hợp nếu
các bên có thoả thuận thì tài sản thế chấp có thể giao cho người thứ ba quản lý.
Đây là điểm khác biệt với cầm cố. Trong quan hệ cầm cố, tài sản bảo đảm phải
được chuyển giao cho bên nhận cầm cố quản lý và nắm giữ.
Sự không chuyển giao tài sản không hề ảnh hưởng tới quyền lợi của bên
nhận thế chấp hay nói cách khác quyền định đoạt đối với tài sản thế chấp của
bên nhận thế chấp không bị mất hay giảm sút từ việc không trực tiếp nắm giữ tài
sản thế chấp. Bên thế chấp là người trực tiếp nắm giữ tài sản thế chấp nhưng
không thể định đoạt tài sản thế chấp, do giấy tờ pháp lý liên quan đến tài sản
đang do bên nhận thế chấp giữ.
- Thứ hai: trong quan hệ thế chấp một tài sản có thể bảo đảm cho nhiều
nghĩa vụ.
Điều này xuất phát từ bản chất của thế chấp, đó là không có sự chuyển
giao tài sản thế chấp. Điều 324 BLDS 2005 qui định “Một tài sản có thể dùng để
bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự, nếu tài sản đó có giá trị tại thời điểm
xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có qui định khác”. Như vậy, một
tài sản có thể dùng để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ nếu như tại thời điểm xác lập
các giao dịch, tổng giá trị các nghĩa vụ không vượt quá giá trị tài sản bảo đảm.
11
Tuy nhiên, trong quan hệ dân sự quyền thoả thuận của các bên luôn được
coi trọng, chính vì vậy các bên có thể thoả thuận dùng một tài sản có giá trị bằng
hoặc nhỏ hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm để bảo đảm cho nghĩa vụ
đó. Điều 5 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 19/12/2006 về giao dịch bảo đảm
(NĐ 163/2006/NĐ-CP) qui định “Trường hợp bên bảo đảm dùng một tài sản để
bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự thì các bên có thể thoả thuận dùng tài
sản có giá trị nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo
đảm, trừ trường hợp pháp luật qui định khác”.
1.2.2 Sơ lược các qui định của pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản qua các
thời kỳ
*Thời kỳ phong kiến
Điển hình cho pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến là hai bộ luật: Bộ Luật
Hồng Đức thế kỷ XV và Bộ Luật Gia Long thế kỷ XIX. Các biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ được qui định chi tiết trong hai Bộ Luật này, đây là những
qui định đầu tiên về các biện pháp bảo đảm và là những biện pháp bảo đảm sơ
khai nhất trong pháp luật dân sự Việt Nam.
Trong các khế ước thời kỳ này, các biện pháp bảo đảm bao gồm: Điển
mại, Bảo chứng, Điển cố tài sản và Điển cố nhân công…
Biện pháp “Điển mại” là biện pháp bảo đảm sơ khai nhất. Trong biện
pháp này, người bán đồng thời là người đi vay, bán tài sản là ruộng đất cho
người mua và người mua trong quan hệ mua bán này đồng thời là người cho
vay. Trong quan hệ mua bán kèm theo điều kiện là người đi vay được chuộc lại
tài sản trong khoảng thời gian tối đa là 30 năm.
“Điển cố” chính là biện pháp cầm cố theo qui định pháp luật hiện hành.
“Điển cố” là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, theo đó con nợ sẽ đem tài
sản thuộc sở hữu của mình cho chủ nợ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ,
con nợ vẫn là chủ sở hữu đối với tài sản đó, chủ nợ có quyền chiếm hữu tài sản
điển cố. Về tài sản “Điển cố” có thể là động sản hoặc bất động sản.
12
Trong hai Bộ Luật Hồng Đức và Bộ Luật Gia Long còn qui định một số
biện pháp bảo đảm khác như: Bảo chứng, Điển cố nhân công.
Thời kỳ này, do trình độ lập pháp chưa phát triển nền kinh tế còn phát
triển ở trình độ thấp. Pháp luật phong kiến không qui định biện pháp thế chấp
mặc dù đối tượng được sử dụng trong biện pháp Điển mại, Điển cố hầu như là
bất động sản: Ruộng đất, nhà cửa…
* Thời kỳ Pháp thuộc
Đến thời kỳ Pháp thuộc, do ảnh hưởng bởi pháp luật dân sự Pháp, lần đầu
tiên biện pháp thế chấp được qui định trong pháp luật dân sự Việt Nam.
Do đất nước bị chia thành ba kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ nên pháp
luật Việt Nam áp dụng không thống nhất. Bắc Kỳ và Trung Kỳ là đất bảo hộ,
các quan hệ dân sự chịu sự điều chỉnh của Bộ Luật Dân Sự Bắc Kỳ (1931) và
Bộ Luật Trung Kỳ (1936). Còn Nam Kỳ là đất nhượng địa nên các quan hệ dân
sự ở Nam Kỳ và ba thành phố (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng) chịu sự điều chỉnh
của Bộ Luật Dân Sự Pháp (1804); Bộ dân luật Bắc Kỳ và Bộ dân luật Trung Kỳ
được dùng tham khảo với ý nghĩa là phong tục tập quán của An Nam.
Nếu như trong hai Bộ luật Hồng Đức và Bộ Luật Gia Long, các biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được qui định tại các khoản, chương, mục khác
nhau thì trong hai Bộ Luật Dân Sự Bắc Kỳ và Bộ Luật Dân Sự Nam Kỳ những
qui định về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự lại được qui định tập
trung tại chương “Các hoạt động bảo đảm”.
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được qui định trong hai Bộ
Luật Dân Sự Bắc Kỳ và Trung Kỳ bao gồm biện pháp: Bảo lãnh, cầm cố, điển
mại và thế chấp. Trong đó các qui định về biện pháp thế chấp là những qui định
hoàn toàn mới. Biện pháp thế chấp được qui định chi tiết về đối tượng thế chấp
là bất động sản, về hình thức hợp đồng thế chấp phải được lập thành văn bản,
phải được công chứng và đăng ký…
* Giai đoạn từ năm 1945 đến trước Bộ Luật Dân Sự 1995
13
Cách mạng tháng 8 thành công, ngày 2/9/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
bản Tuyên Ngôn Độc Lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Với
một Nhà nước mới được thành lập, chiến tranh chưa chấm dứt, cuộc kháng
chiến vẫn đang tiếp diễn. Trong hoàn cảnh ấy Nhà nước mới được thành lập
không thể kịp thời ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ trong
xã hội, đặc biệt là quan hệ dân sự. Chính vì lẽ đó, ngày 10/10/1945 chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ký sắc lệnh số 09/SL cho phép tạm thời sử dụng một số luật lệ hiện
hành ở Bắc, Trung, Nam cho đến khi Bộ Luật duy nhất cho toàn quốc được ban
hành “Nếu những luật lệ ấy không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt
Nam và chính thể cộng hoà”. Với tinh thần đó, Bộ dân luật Bắc Kỳ (1931), Bộ
dân luật Trung Kỳ (1936) và Bộ dân luật Nam Kỳ giản yếu (1883) vẫn tiếp tục
được thi hành. Vì vậy các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, trong
đó biện pháp thế chấp được qui định trong các Bộ Luật trên cũng vẫn tiếp tục
được áp dụng.
Từ năm 1960 đến 1989 nền kinh tế chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi cơ chế tập
trung, quan liêu bao cấp và mệnh lệnh hành chính, cho nên, hệ thống văn bản
pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự và kinh tế không được chú trọng, do đó
các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ không được qui định.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, là mốc quan trọng đánh dấu sự đổi
mới toàn diện của nền kinh tế nước ta “phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”. Kinh tế đất nước phát triển, các quan hệ dân sự và kinh tế được quan
tâm nhiều hơn. Năm 1989, pháp lệnh hợp đồng kinh tế được ban hành, trong đó
có qui định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự như: cầm cố, thế
chấp, bảo lãnh.
Bộ Luật Hàng Hải Việt Nam năm 1990 Điều 329 đề cập biện pháp cầm
cố, thế chấp tàu biển và luật Hàng Không Dân Dụng Việt Nam năm 1992 cũng
qui định về thế chấp tàu bay (Điều 19, Điều 20)
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét