Thứ Bảy, 15 tháng 2, 2014

260122

1.2. Tính chất hai mặt của toàn cầu hóa
Nếu nhìn tổng thể quá trình phát triển của nền kinh tế quốc tế, thì chính các
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật - công nghệ đóng vai trò to lớn làm tăng nhanh
chóng thu nhập thế giới, đồng thời thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới.
Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVI, thu nhập thế giới hàng năm chỉ hơi nhích lên,
nhưng từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX đã tăng khoảng 50%. Sau đó, trong một thế
kỷ (1850 - 1950) nó đã tăng gấp 3 lần. Và chỉ trong nửa cuối thế kỷ 20 (1950 -
2000) lại tăng gấp 3 lần nữa.
Thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, mọi hoạt động thương mại, tài chính,
tiền tệ, đầu tư đều tăng nhanh. Từ 1990 đến 1997, tăng trưởng khối lượng xuất
khẩu thế giới hàng năm đạt 7% đạt trong khi tăng trưởng GDP thế giới chỉ đạt 3%.
Lượng tiền trao đổi qua các giao dịch tài chính quốc tế hàng ngày trên thế giới
năm 1986 mới ở mức 200 tỉ USD thì đến năm 1996 đã lên tới 1.500 tỉ USD (nay
lên tới 3.500 tỷ USD). Từ năm 1991 đến 1997, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng
tăng 10%. Năm 1990 tổng số các công ty xuyên quốc gia là 35.000 với 150.000
chi nhánh thì đến 1997 đã lên tới 53.000 công ty với 450.000 chi nhánh hoạt động
trên khắp thế giới.
Đấy là những nhân tố thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới,
tạo điều kiện ít nhiều thuận lợi cho các nước tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa
do sự phân công chuyên sâu trong hợp tác quốc tế.
Nhưng vì toàn cầu hóa mang tính chất tư bản chủ nghĩa rõ rệt "khi mà các
nước tư bản chủ nghĩa giàu có nhất, các công ty tư bản xuyên quốc gia đang nắm
trong tay những nguồn lực vật chất và phương tiện hùng mạnh nhất để tác động
lên toàn thế giới như vốn, kỹ thuật, công nghệ, các tổ chức và thể chế kinh tế, tài
chính, tiền tệ, thương mại quốc tế. Họ nắm cả những phương tiện hùng mạnh nhất
trong lĩnh vực sản xuất tinh thần và tác động tinh thần, cả những nguồn lực quan
trọng nhất về chất xám ", thì rõ ràng quá trình toàn cầu hóa có nhiều bất lợi cho
các nước nghèo và đang phát triển.
Nếu như trước đây, sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới còn dựa trên
nguồn nguyên nhiên liệu, các nước nghèo và đang phát triển còn nhiều lợi thế đấu
5
tranh, thì ngày nay nhân tố tri thức, cùng phương tiện truyền thông ngày càng
đóng vai trò quan trọng lại nằm trong tay các nước phát triển giàu có.
Và toàn cầu hóa không những không tạo ra mức sống đồng đều cho mọi người,
mọi quốc gia, mọi khu vực mà ngược lại nó làm cho hố ngăn cách giàu nghèo
ngày càng sâu rộng, bất bình đẳng ngày càng lớn. Theo chương trình Liên hợp
quốc về phát triển (PNUD) thì cuối những năm 90, 85% thu nhập thế giới rơi vào
túi 1/5 số người giàu nhất (trong khi vào những năm 60 họ mới chiếm 70%), 1/5
số người nghèo nhất chỉ chiếm 1,4% (những năm 60 còn chiếm 2,3%).
Khóa họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên hợp quốc diễn ra ở Giơnevơ mới
đây đã kết luận "nghèo đói, sự không đồng đều và tình trạng mất an ninh đã tăng
lên trên thế giới kể từ khi toàn cầu hóa được khởi động". Cách đây 5 năm, số
người nghèo là 1 tỷ nay đã lên tới 1,2 tỷ. Các nước công nghiệp hóa giàu hơn các
nước nghèo nhất tới 74 lần. Trong 30 nước nghèo nhất, thu nhập bình quân thực tế
đầu người đã giảm đi trong 35 năm qua. Tài sản của 3 nước giàu nhất thế giới lớn
hơn tổng sản phẩm quốc dân nội địa của các nước kém phát triển nhất cộng lại với
số dân lên tới 600 triệu người. Còn theo báo cáo của Hội nghị Liên hợp quốc về
thương mại và phát triển (CNUCED), thì trong số 644 tỷ USD đầu tư quốc tế, 2/3
vào Mỹ và Liên minh châu Âu, tất cả các nước đang phát triển chỉ thu hút được
1/3, trong đó cả lục địa châu Phi chỉ nhận được 8,3 tỷ USD tức chỉ chiếm 1,3%.
Thực chất "các nhà đầu tư quốc tế chủ yếu đến từ các nước phát triển và
động cơ của họ là lợi nhuận kinh tế chứ không phải là giúp các nước đang phát
triển tăng trưởng bền vững”.
Những năm 90, toàn cầu hóa có giúp cho tuổi thọ trung bình tăng lên và nạn
mù chữ giảm đi phần nào. Nhưng những người mắc bệnh Aids lại tăng gấp đôi chỉ
trong thời gian từ 1990 - 1997. Đến năm 1997 vẫn còn 850 triệu người lớn tuổi
không biết đọc, biết viết; 1/3 tỷ người vẫn không được sử dụng nước sạch; 1/7 trẻ
em ở độ tuổi đi học vẫn không được đến trường; 160 triệu trẻ em bị suy dinh
dưỡng và số trẻ em phải làm việc nặng nhọc còn nhiều hơn thế.
Gánh nặng nợ nần chồng chất cũng làm cho các nước nghèo và kém phát
triển khó tranh thủ được những thuận lợi của toàn cầu hóa. Sự mở cửa biên giới do
hội nhập vào tiến trình toàn cầu hóa còn có nguy cơ làm gia tăng tình trạng buôn
6
lậu vũ khí, ma tuý và làm trôi nổi số nhân công có tay nghề cao. Chẳng hạn, năm
1998 hơn 250.000 lao động châu Phi tay nghề cao sang làm việc tại châu Âu và
Hoa Kỳ (10), và nếu tính toàn bộ các nước đang phát triển thì con số đó phải lên
tới hàng triệu. Nạn chảy máu chất xám này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình
hội nhập và phát triển của các nước nghèo và đang phát triển.
Toàn cầu hóa cũng tác động mạnh đến việc hoạch định chính sách quốc gia
của từng nước vì các Nhà nước sẽ khó khăn hơn trong việc thiết kế chính sách
kinh tế xã hội của mình dưới con mắt xoi mói của các thị trường kinh tế và tài
chính đã được toàn cầu hóa. Các nước chịu sức ép lớn buộc phải đặt các thoả
thuận đa phương lên trên chính sách quốc gia.
Chính vì thế mà toàn cầu hóa diễn ra với "bao nhiêu mâu thuẫn đủ loại, cực
kỳ phức tạp, đan xen. Đó là mâu thuẫn giữa một bên là quyền lực và lợi ích chi
phối, thao túng của những thế lực tư bản quốc tế, các nước tư bản chủ nghĩa với
một bên là chủ quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc. Đó là mâu thuẫn ngay trong
lòng các nước tư bản chủ nghĩa, giữa các tập đoàn tư bản với nhau. Đó là mâu
thuẫn giữa tăng trưởng của cải với phân phối không công bằng dẫn tới phân cực
giàu nghèo ngày càng tăng giữa các quốc gia và trong mỗi nước, giữa trung tâm
với ngoại vi, giữa Bắc với Nam. Đó là mâu thuẫn giữa kinh tế tăng trưởng với văn
hóa, đạo đức xã hội suy đồi do tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường toàn cầu
hóa. Đó là mâu thuẫn giữa hợp tác và đấu tranh. Là mâu thuẫn giữa xã hội với
thiên nhiên biểu hiện ở hiểm hoạ ngày càng tăng và mâu thuẫn cho đời sống con
người do tàn phá môi trường sinh thái.
Tóm lại, toàn cầu hóa là một quá trình tất yếu và những lợi ích mà nó mang
lại là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng đặt ra muôn vàn khó
khăn, thách thức và mâu thuẫn cho các quốc gia đặc biệt là các nước nghèo và các
nước đang phát triển.
7
Chương 2
TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY VỚI TƯƠNG LAI CỦA CHỦ NGHĨA
TƯ BẢN VÀ TRIỂN VỌNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. Toàn cầu hóa hiện nay với tương lai của chủ nghĩa tư bản
2.1.1. Toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, xét về không gian tồn tại của nó, là
sự tiếp tục quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng cách
mở rộng kiểu sản xuất tư bản chủ nghĩa ra toàn cầu.
Quá trình xã hội hóa LLSX tư bản chủ nghĩa, trên bình diện không gian
kinh tế có hai trình độ là quốc tế hóa và toàn cầu hóa hiện nay. Ở thế kỷ XIX,
những cuộc cách mạng trong sản xuất và quá trình công nghiệp hóa lần thứ nhất,
những phát kiến địa lý và sự mở rộng thị trường của chủ nghĩa tư bản… đã thúc
đẩy và làm cho LLSX định hình rõ tính chất quốc tế. Lần này, từ giữa thế kỷ XX
và cả những năm xắp tới của thế kỷ XXI, cuộc cách mạng công cụ sản xuất mà
nòng cột là những thành tựu khoa học và công nghệ mới đang thâm nhập và làm
cho LLSX của nhân loại đại tới một trình độ mới. Quá trình liên kết, phụ thuộc lẫn
nhau trong hoạt động sản xuất, mậu dịch, tài chính tiền tệ giữa các nước tăng vọt;
nguyên tắc kinh tế thị trường chi phối hầu hết nền kinh tế; mức độ tham gia phân
công lao động quốc tế và khả năng chiếm lĩnh thị trường thế giới đang là những
yếu tố xác định vị thế kinh tế của mỗi nước trong toàn cầu hóa kinh tế.
2.1.2. Toàn cầu hóa kinh tế hiện nay đang có sự lặp lại những logic của
quốc tế hóa ở những thế kỷ trước, song với một trình độ cao hơn và cũng đặt ra
những vấn đề chính trị - xã hội gay gắt hơn với chủ nghĩa tư bản.
Hiện nay, công nghệ thông tin với chức năng trợ lực, khai phóng… năng
lực tư duy cho con người cùng với các thành tựu khoa học và công nghệ khác chắc
chắn sẽ tạo ra một tiền đề rộng lớn cho phát triển lực lượng sản xuất. Hệ dẫn
truyền của nó hiện nay gồm những nguyên tắc của kinh tế thị trường và những
thiết chế kinh tế - xã hội còn mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa tư bản. Vấn đề là ở
chỗ hệ dẫn truyền ấy liệu có phù hợp cới toàn cầu hóa kinh tế hiện đại.
8
Toàn cầu hóa hiện nay, cũng như ở các thế kỷ trước, trước tiên là một hiện
tượng kinh tế nhưng không thuần túy kinh tế, mà xen vào đó, chi phối nó là nhiều
yếu tố chính trị, văn hóa, xã hội nhưng có nội dung, hình thức mức độ, xu hướng
khác. Trên phương diện chính trị - xã hội, toàn cầu hóa kinh tế đang là sự phát
triển mới của LLSX hiện đại lấy chủ nghĩa tư bản làm “hệ dẫn truyền”, điều này
đồng nghĩa với sự bành trướng kiểu sản xuất – trao đổi – tiêu thụ hàng hóa tư bản
chủ nghĩa ra toàn cầu. Lưu thông kinh tế toàn cầu, phân công lao động toàn cầu
đang diễn ra với nhiều quốc gia đang có chế độ chính trị - xã hội khác nhau; song
về cơ bản những nguyên tắc điều phối quan hệ kinh tế quốc tế đang dựa trên
những thiết chế và chế định của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Ba chủ thể lợi ích nổi
bật hiện nay là các nhà nước – dân tộc (mà chủ yếu là các nước tư bản lớn); các
công ty xuyên quốc gia và các thiết chế kinh tế toàn cầu như WTO, WB, IMF…
đang chi phối toàn cầu hóa kinh tế và làm nên phương diện chính trị - xã hội của
nó. Hiệu quả kinh tế và hệ quả xã hội của quá trình toàn cầu hóa kinh tế hiện nay
không chỉ phụ thuộc vào tầm vóc, công năng của nó mà còn bị chi phối sâu sắc
bởi phương diện này.
Nổi lên trong đời sống chính trị - xã hội quốc tế hiện đại là những vấn đề
chính trị - xã hội mà toàn cầu hóa kinh tế đang đặt ra. Trên thực tế. toàn cầu hóa
kinh tế hiện nay đang trong trạng thái không bình thường mà giới nghiên cứu diến
đạt tính chất ấy bằng nhiều cách khác nhau, như “tính đồng đẳng”, “ngoài vòng
kiểm soát”… Bản chất của những hiện tượng ấy là mất bình đẳng về lợi ích giữa
các nước phát triển (mà chủ yếu là nhóm G7) với các nước đang phát triển; sự can
thiệp thô bạo của chủ nghĩa đế quốc vào chủ quyền quốc gia, dân tộc độc lập, bản
sắc văn hóa của những nước “đang chuyển đổi” nền kinh tế theo hướng hội nhập
toàn cầu hóa kinh tế; mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và chất lượng
của phát triển xã hội chưa được giải quyết hài hòa. Những vấn đề chính trị - xã hội
đó khách quan đặt ra nhu cầu là toàn cầu hóa kinh tế cần có một môi trường, một
hệ điều tiết chính trị - xã hội khác để nó phát triển trong bình đẳng và tiến bộ.
Không giải quyết được những vấn đề này, chính bản thân quá trình bành trướng
LLSX theo bề rộng cũng bị cản trở. Các hiện tượng “phản toàn cầu hóa” là ví dụ
điển hình.
9
Trong hai mươi năm tới, quá trình bành trướng theo bề rộng của LLSX
TBCN với sức mạnh như là “một cơn hồng thủy” sẽ cuốn hút theo tiến trình của
nó nhiều quốc gia đang trong “quá trình chuyển đổi”. Có hai sức mạnh tạo nên lực
cuốn hút này, một là logic của quá trình xã hội hóa LLSX, và hai là sức mạnh kinh
tế mang nhiều tính cưỡng bức của những nước tư bản chủ nghĩa phát triển đang cố
gắng “tạo ra một thế giới theo hình ảnh của nó”. Hai sức mạnh đó tạo nên hai
chiều hướng phát triển khác nhau sau đây:
Thứ nhất: quá trình xã hội hóa LLSX là tất yếu của tiến bộ xã hội, của văn
minh; nó không chấp nhận thái độ đầy mâu thuẩn của các nước tư bản chủ nghĩa
phát triển (mà đứng đầu là Mỹ); vừa muốn các nước đang phát triển đi theo con
đường tư bản chủ nghĩa thông qua quá trình toàn cầu hóa kinh tế, lại vừa không
muốn họ trở thành đối thủ cạnh tranh mới của mình. Thực tế cũng không chấp
nhận mô hình phát triển theo kiểu “chủ nghĩa quốc gia”, “đóng cửa”, “tự lực – tự
cường”, hoặc tư duy phi biện chứng trong nhận thức một thời; đối lập tuyệt đối
với những thành quả văn minh được tạo ra trong CNTB. Sứ mệnh lịch sử thế giới
của giai cấp công nhân mang bản chất quốc tế và nó không hề xa lạ với những
hiện tượng quốc tế phản ánh tiến bộ xã hội. Chủ động hội nhập quá trình toàn cầu
hóa kinh tế không chỉ là một tiền đề để phát triển kinh tế mà còn là một tiến trình
hợp với logic phát triển.
Thứ hai: đối với các nước đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
toàn cầu hóa kinh tế hiện nay đặt ra thách thức nhiêu hơn là cơ hội. Các nước đang
phát triển theo định hướng XHCN tham gia phân công lao động quốc tế, hội nhập
quốc tế với trình độ thấp hơn rất nhiều, lại phải chấp nhận những ‘luật chơi” hiện
còn đậm dấu ấn tư bản chủ nghĩa, sẽ phải trả một giá không rẻ nếu để chệch
hướng trong khi hội nhập kinh tế thế giới. Chệch hướng lớn nhất đối với CNXH
hiện thực khi tham gia toàn cầu hóa hiện nay là quên mất vai trò lịch sử trao cho là
tạo nên một kiểu phát triển mới thông qua toàn cầu hóa kinh tế. Chủ nghĩa xã hội
phải tham gia chủ động và tích cực vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế vì triển
vọng phát triển của nó và vì tương lai của toàn cầu hóa trên chất lượng mới; bình
đẳng giữa các quốc gia và không còn chế độ người bóc lột người. Giá trị thực tiễn
lớn nhất mà chủ nghĩa xã hội hiện thực mang lại là tham gia vào một quá trình
10
kinh tế quốc tế, hiện đang còn mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa tư bản, để neu lên
một kinh nghiệm thực tiễn cho việc giải quyết, trên một cơ sở mới, những vấn đề
của toàn cầu hóa hiện nay. Không nên quên một điều rằng, ngay trong thời kỳ
chiến tranh lạnh trước đây, khi thế giới được phân thành hai hệ thống khá biệt lập
cả về chính trị và kinh tế thì những giá trị của chủ nghĩa xã hội hiện thực vẫn bằng
mọi cách thâm nhập vào chủ nghĩa tư bản và làm cho nó phải có những điều chỉnh
theo hướng dân chủ hóa; rất có thể trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay,
những chân giá trị của các nước đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
sẽ thông qua cái kinh tế mà tiềm nhập và tạo nên những tiến hóa trong lòng chủ
nghĩa tư bản. Toàn cầu hóa đã chuẩn bị thêm một bước mới về điều kiện vật chất,
kinh tế, xã hội, văn hóa cho chủ nghĩa xã hội trong tương lai.
2.1.3. Toàn cầu hóa kinh tế cũng đẩy nhanh quá trình tới hạn của chủ
nghĩa tư bản.
Hiện nay, toàn cầu hóa kinh tế đang mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa tư bản,
song “tính đảo ngược luôn tồn tại trong lịch sử. Đặc biệt là đảo ngược, từ phản
động thoái bộ sang đi lên và tiến bộ, từ phá hủy sang xây dựng, từ hủy diệt sang
khôi phục và tăng trưởng, từ vô nhân đạo sang văn minh”. “Từ chủ nghĩa tư bản
toàn cầu hóa rồi chủ nghĩa cộng sản toàn cầu hóa sẽ là một quá trình lịch sử lâu
dài, quanh co song biện chứng đã vạch ra, cái xu thế lớn này là không thể đảo
ngược. Không được lãng quên xu thế đó trong khi chủ nghĩa xã hội hội nhập kinh
tế quốc tế.
Sự bành trướng theo chiều rộng của chủ nghĩa tư bản hiện đại một mặt tiếp
tục nỗ lực của chủ nghĩa tư bản, mà Mác và Ăng ghen đã vạch ra, là ‘tạo ra một
thế giới theo hình ảnh của nó”, mặc khác nó cũng nằm chung trong logic của sự
phát triển hiện đại là “lịch sử ngày càng trở thành lịch sử thế giới” – từ hai góc độ
này, sự phát triển theo hướng toàn cầu của LLSX hiện đại vừa là một thức tế phản
ánh khả năng biến đổi của chủ nghĩa tư bản, vừa là một hiện tượng mang tính quy
luật phát triển của kinh tế hiện đại. Từ quá trình bành trướng theo chiều rộng này
của LLSX TBCN, đối với nhiều quốc gia đang phát triển, toàn cầu hóa tạo điều
kiện khai thác nhiều tiềm năng kinh tế, phát huy được nhiều lợi thế so sánh thông
qua phân công lao động quốc tế và là một tác động quan trọng khiến cho cơ chế
11
kinh tế của nhiều quốc gia dần chuyển đổi theo cơ chế kinh tế thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế. nó thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở những nước còn lạc hậu,
lôi cuốn họ tham gia sâu hơn vào quá trình xã hội hóa LLSX của thế giới hiện đại.
Tính toàn cầu của chủ nghĩa tư bản hiện đại, theo tư tưởng của C. Mác chưa kết
thúc quá trình của nó chừng nào mà những LLSX, mà chế độ xã hội đó tạo địa bàn
đầy đủ cho phát triển, còn chưa phát triển…
Từ phương diện này, toàn cầu hóa kinh tế cũng làm rõ dần tất yếu kinh tế về
quá trình tới hạn của chủ nghĩa tư bản. Nó khai triển mâu thuẩn cơ bản của
phương thức sản xuất TBCN đến mọi ngõ ngách của thế giới qua những biểu hiện
của xã hội đa dạng. Đó là mâu thuẩn giữa giai cấp công nhân hiện đại đang bị
CNTB toàn cầu bóc lột giá trị thặng dư với mọt giai cấp tư sản “ngày càng trở nên
là giai cấp thừa” trong sản xuất xã hội; đó là mâu thuẩn giữa các nước phát triển
với các nước đang phát triển, giữa các nước giàu và nước nghèo hay phương Bắc
và phương Nam, giữa trung tâm và ngoại vi; đó là mâu thuẫn của lợi ích từng
quốc gia, dân tộc với lợi ích của các tập đoàn tư bản; giữa các nước phát triển và
đang phát triển…Tất cả đều mang bản chất hoặc là sự phản ánh mâu thuẩn cơ bản
của chủ nghĩa tư bản. Sự phát triển của LLSX hiện đại đang vươn tới quy mô toàn
cầu nhưng bị chặn lại. Một phương thức sản xuất khi đã tới giới hạn tự nhiên của
nó sẽ bắt đầu quá trình “tự chết”, tự phủ định. Chủ nghĩa tư bản hiện đại với tư
cách là một hiện tượng lịch sử càng phát triển nhanh bao nhiêu thì càng mau tới
hạn bấy nhiêu.
Từ thực tiễn của sản xuất hiện đại, nhu cầu có một toàn cầu hóa trên trình
độ mới đang hiện rõ và mầm mống của một phương thức sản xuất mới cũng đang
lớn dần, đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
2.1.4. Khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay và điều chỉnh chiến lược của
chủ nghĩa tư bản.
Khủng hoảng kinh tế của CNTB không phải là điều mới lạ nhưng khủng
hoảng kinh tế hiện nay có tính mới. Ít ai ngờ là nó đến nhanh và có sức tàn phá với
mức độ hủy diệt như vầy đối với cơ chế quan trọng nhất của CNTB – cơ chế tài
chính. Cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay với mức độ trầm trọng và với quy mô
12
toàn cầu. Các trung tâm kinh tế lớn nhất như Mỹ, Nhật Bản, liên minh Châu Âu
cùng lần lượt rơi vào suy thoái khủng hoảng trong mootj thời gian ngắn.
Hậu quả của nền kinh tế thế giới là nghiêm trọng và đa diện. Cuộc khủng
hoảng tài chính bắt đầu từ Mỹ được ví như “Trận Trân Châu Cảng về kinh tế” hay
“cơn đại hồng thủy”. Nó làm rung chuyển toàn bộ nền kinh tế thế giới…Rất có
thể, diện mạo tương lai của nền kinh tế - tài chính thế giới sẽ thay đổi sau cuộc
khủng hoảng này. Hệ lụy khác cũng rất trầm trọng. Trong bản báo cáo về lao động
trên thế giới năm 2009, ILO dự báo rằng trong năm 2010, toàn thế giới có 230
triệu người không có việc làm….
Với tiến trình toàn cầu hóa, đây cũng là sự phá sản của mô hình “chủ nghĩa
tự do” mới. Quan niệm chủ đạo của lý thuyết này là đẩy mạnh hoạt động của thị
trường tự do, khuyến khích tư nhân hóa và hạn chế sự can thiệp, kiểm soát của nhà
nước. Chủ nghĩa tự do mới và hệ thống kinh tế do nó dẫn dắt được thể hiện tập
trung nhất trong hệ thống tài chính, đã đem lại sự phát triển bột phát cùng với
nhiều sự tàn phá ghê gớm ở mức độ vượt quá tầm kiểm soát đối với kinh tế của
CNTB. Lý thuyết ấy đã sụp đổ sau gần 30 năm vận hành. “Thị trường tự do, toàn
cầu hóa và phi điều tiết đã phát triển trên toàn cầu trong 30 năm qua, thời đại đó
nay đã chấm dứt và một thời đại mới đã đến. Hội nhập tài chính và kinh tế toàn
cầu đang đảo chiều. Vai trò của nhà nước cùng với sự bảo hộ thương mại và tài
chính đang gia tăng” (Roger C.Altman: Những hậu quả địa chính trị xa hơn của khủng hoảng
tài chính, Báo Nhân dân, ngày 25/6/2009). Chủ nghĩa tư bản từ cuộc khủng hoảng này
chắc chắn sẽ có những điều chỉnh chiến lược.
Và một hệ quả khác là, toàn cầu hóa hiện đang mang đậm tính chất tư bản
chủ nghĩa hiện nay sẽ không thể như cũ.
CNTB độc quyền nhà nước vài thập niên gần đây đã dần chuyển thành
CNTB độc quyền xuyên quốc gia thông qua toàn cầu hóa kinh tế. Trong quá trình
này, các công ty độc quyền xuyên quốc gia là lực lượng thao túng thị trường quốc
tế (Hiện nay khoảng 500 công ty xuyên quốc gia đang chiếm 1/3 GDP của thế
giới, thâu tóm 70% đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), 2/3 mậu dịch quốc tế và
trên 70% hợp đồng chuyển nhượng công nghệ). Hỗ trợ cho các công ty này là các
định chế toàn cầu do CNTB thao túng như Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng
13
thế giới (WB) và các thỏa thuận về thuế quan điều chỉnh thương mại như Hiệp
định chung về thuế quan (GATT)… Cùng với nó, tiến trình khu vực hóa cũng
đang được xúc tiến mạnh mẽ dẫn đến sự ra đời của Cộng đồng kinh tế châu Âu
(EEC), Khu vực tự do Bắc Mỹ, và Diễn đàn kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình
Dương (AFEC)… Sức phát triển của LLSX, của nền kinh tế toàn cầu… đã làm
nảy sinh nhiều mối quan hệ kinh tế và buộc chủ nghĩa tư bản độc quyền xuyên
quốc gia phải mở rộng GATT. Bởi thế, năm 1994, tiếp nối GATT, “Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) ra đời. Như vậy, xét về thể chế và thiết chế kinh tế,
trong vòng hai thập kỷ 80 và 90 của thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã liên tục thay
đổi, mà WTO là nổ lực lớn nhất.
Thực tế trên đây chỉ ra hai thuộc tính cơ bản của toàn cầu hóa kinh tế. Một
mặt, nó thể hiện tính tiên tiến của LLSX hiện đại; thúc đẩy sự phân công lao động
và hợp tác quốc tế, phát triển nền sản xuất xã hội, thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa nền kinh tế các nước. Mặt khác nó thể hiện bản chất của CNTB độc quyền
xuyên quốc gia; luôn luôn tìm cách mở rộng tư bản để tăng cường bóc lột và
truyền bá phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Theo đó, trong cách nhìn duy vật biện chứng về lịch sử, nó sẽ mang lại tác
động hai chiều với triển vọng của CNXH: một là, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình xã
hội hóa LLSX – nguyên nhân sâu xa cho sự xuất hiện một hình thái kinh tế-xã hội
sẽ phủ định CNTB; hai là, tạo ra những tác động thách thức, những tình huống
cho quá trình phát triển của CNXH.
Nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn
cầu hiện nay, về cơ bản, vẫn không nằm ngoài nguyên nhân mà C.Mác đã từng
phát hiện: Đó là mâu thuẩn giữa sự phát triển vô cùng mạnh mẽ của LLSX trên
quy mô toàn cầu với quan hệ sản xuất và các quyền lực tư bản đã tỏ ra thiếu hiệu
quả và mất khả năng kiểm soát đối với các hình thức tổ chức kinh doanh do chính
các quyền lực đó tạo ra; rằng sự mở rộng quá mức của tự do hóa và các vấn đề
toàn cầu đang mâu thuẩn sâu sắc với các chủ thể quản trị mang tính quốc gia; rằng
sự buông lỏng vai trò và thiếu khả năng kiểm soát của các nhà nước đang làm cho
tính vô chính phủ của thị trường lấn át, thậm chí có thể đe dọa đến sự tồn vong của
cả hệ thống kinh tế- xã hội tư bản. Kinh nghiệm cho thấy, cứ sau mỗi cuộc khủng
14

Xem chi tiết: 260122


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét