Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2014

bội chi ngân sách nhà nước và thực trạng bội chi ngân sách nhà nước ở việt nam hiện nay


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "bội chi ngân sách nhà nước và thực trạng bội chi ngân sách nhà nước ở việt nam hiện nay": http://123doc.vn/document/1055582-boi-chi-ngan-sach-nha-nuoc-va-thuc-trang-boi-chi-ngan-sach-nha-nuoc-o-viet-nam-hien-nay.htm


Phí là khoản thu do Nhà nước quy định nhằm bù đắp một phần chi phí của
NSNN mà nhà nước đã dùng để: đầu tư xây dựng, mua sắm, bảo dưỡng và quản lý tài
sản quốc gia; tài trợ cho tổ chức, cá nhân hoạt động sự nghiệp, hoạt động công cộng
như giao thông. Phí là một khoản thu mang tính bù đắp và bắt buộc khi một cá nhân
hay tổ chức hưởng một lợi ích hoặc được sử dụng một dịch vụ công do Nhà nước cung
cấp, vì vậy phí mang tính hoàn trả trực tiếp.
Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước
• Thu lợi tức từ hoạt động góp vốn liên doanh, cổ phần của nhà nước vào các cơ
sở kinh tế.
• Thu tiền sử dụng vốn NSNN từ các doanh nghiệp nhà nước.
• Tiền thu hồi vốn nhà nước cấp tại các cơ sở kinh tế (tiền bán cổ phần tại các
doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, bán doanh nghiệp nhà nước)
• Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi) từ các tổ chức, cá nhân trong
nước vay qua tổng cục đầu tư phát triển hoặc qua hệ thống ngân hàng và từ
chính phủ nước ngoài, các tổ chức quốc tế.
Thu từ hoạt động sự nghiệp
• Thu từ bán sản phẩm các đơn vị sự nghiệp. Các đơn vị sự nghiệp có cơ chế tài
chính là dự toán NSNN nên toàn bộ các khoản thu phải nộp vào NSNN
• Các khoản chênh lệch thu – chi cả các đơn vị hoạt động sự nghiệp có thu.
Ngoài ra thu NSNN bao gồm các khoản tiền bán cho thuê tài sản Nhà nước, các khoản
huy động đóng góp, viện trợ, thu kết dư ngân sách và các khoản thu khác theo quy định
của pháp luật.
1.2.2. Chi ngân sách nhà nước
Chi Ngân sách nhà nước là quá trình Nhà nước phân bố và sử dụng các quỹ tiền
tệ đã được tập trung vào ngân sách để đáp ứng cho các nhu cầu chi gắn liền với việc
thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước. Chi ngân sách nhà nước bao gồm các
khoản chi đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, các khoản chi thường xuyên bảo đảm quốc
phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi
viện trợ và các khoản chi khác.
Chi đầu tư phát triển về :
• Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
• Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài
chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp.
• Chi bổ sung dự trữ nhà nước.
• Chi đầu tư phát triển thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước;
Chi thường xuyên về:
• Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông tin văn
học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, các sự nghiệp xã hội
khác.
• Các hoạt động sự nghiệp kinh tế.
• Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
• Hoạt động của các cơ quan nhà nước.
• Hoạt động của Đảng Cộng sản Việt và hỗ trợ các tổ chức chính trị xã hội.
• Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội;
• Các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài các khoản thực chi còn có các khoản được liệt kê vào chi NSNN là: chi
trả nợ (bao gồm cả gốc và lãi) các khoản tiền do Chính phủ vay; chi cho vay; chi viện
trợ của ngân sách trung ương cho các chính phủ và tổ chức nước ngoài; chi bổ sung
quỹ dự trữ tài chính NSNN…
2. Cân đối ngân sách nhà nước
2.1. Khái niệm cân đối ngân sách nhà nước
Cân đối NSNN là quan hệ cân bằng giữa thu và chi của NSNN trong một thời
kỳ (thường là một năm ngân sách). Khái niệm cân đối NSNN xuất phát từ yêu cầu
khách quan đối với phân bổ và điều hòa thu, chi NSNN trong sự vận động của nguồn
lực tài chính, cũng là quá trình kinh tế do Nhà nước vận dụng các biện pháp điều tiết
tài chính để tiến hành kiểm soát và điều hòa sự phân phối nguồn lực tài chính xã hội.
Về bản chất, cân đối NSNN là cân đối giữa nguồn lực tài chính mà nhà nước
huy động và tập trung được vào quỹ NSNN trong một năm, với nguồn lực được phân
phối, sử dụng để thỏa mãn nhu cầu của nhà nước cũng trong năm đó. Theo đó, xét trên
góc độ tổng thể, cân đối NSNN phản ánh mối tương quan giữa thu và chi NSNN trong
một năm tài khóa và cả tính hài hòa, hợp lý trong cơ cấu giữa các khoản thu và các
khoản chi NSNN, để qua đó thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội ở tầm vĩ
mô cũng như trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể. Xét trên phương diện phân cấp
quản lý NSNN, cân đối NSNN là cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa
các cấp ngân sách, để qua đó các cấp chính quyền thực hiện chức năng, nhiệm vụ được
giao.
2.2. Các trạng thái của ngân sách nhà nước
Mối tương quan giữa thu và chi NSNN trong một năm tài khóa được biểu hiện
qua 3 trạng thái sau:
NSNN cân bằng: nhà nước huy động nguồn thu vừa đủ để trang trải chi tiêu
NSNN thặng dư: thu ngân sách lớn hơn chi ngân sách. Nhà nước đã huy động
nguồn lực quá mức cần thiết hoặc không xây dựng được chương trình chi tiêu hợp lý
tương ứng với số thu hoặc kinh tế phát triển thịnh vượng làm tăng thu ngân sách ngoài
dự toán và nhà nước có thể chủ động sắp xếp phân bổ thặng dư cho những năm tiếp
theo.
NSNN bội chi (thâm hụt): nghĩa là chi NSNN lớn hơn thu NSNN. Trong trường
hợp này, thu NSNN không đáp ứng được nhu cầu chi. Nguyên nhân có thể là do nhà
nước không sắp xếp được nhu cầu chi cho phù hợp với khả năng; cơ cấu chi tiêu dùng
và đầu tư không hợp lý gây lãng phí; do tình trạng thất thu ngân sách; nhưng cũng có
thể là do nền kinh tế suy thoái theo chu kỳ hoặc ảnh hưởng bởi thiên tai hay chiến
tranh, thu NSNN giảm sút tương đối so với nhu cầu chi để phục hồi nền kinh tế.
2.3. Đặc điểm của ngân sách nhà nước
Cân đối NSNN phản ánh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi NSNN nhằm
đạt được các mục tiêu của chính sách tài khóa. NSNN vừa là công cụ thực hiện chính
sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. Việc thay đổi trạng thái cân đối thu chi
ngân sách tác động nhất định đến các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, sự
tính toán thu - chi cân đối NSNN không phản ảnh một cách thụ động các chỉ tiêu kinh
tế – xã hội, mà ngược lại về phần mình, cân đối NSNN có tác động làm thay đổi hoặc
điều chỉnh một cách hợp lý các chỉ tiêu kinh tế xã hội bằng khả năng quản lý các nguồn
lực và phân bổ các nguồn lực có hiệu quả. Như vậy, vấn đề cốt lõi của cân đối NSNN
là đánh giá và khai thác nguồn thu một cách hợp lý; phân bổ và sử dụng nguồn lực hiệu
quả; phần thiếu hụt sẽ bù đắp bằng vay nợ được đặt trong một chiến lược quản lý nợ
công tối ưu.
Về nội dung, cân đối NSNN bao gồm cân đối giữa tổng thu và tổng chi, cân đối
giữa các khoản thu và các khoản chi NSNN, cân đối về phân bổ chuyển giao nguồn lực
giữa các cấp trong hệ thống NSNN, đồng thời phải kiểm soát được tình trạng NSNN để
qua đó thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội ở tầm vĩ mô và trong
từng lĩnh vực, địa bàn
Cân đối NSNN mang tính định lượng và tính tiên liệu. Cân đối ngân sách phải
được định lượng cụ thể tổng thu, tổng chi, quy mô so với GPD; chi tiết các khoản mục
thu, chi và phân bổ ngân sách trung ương với ngân sách các cấp địa phương. Cân đối
NSNN phải tiên liệu được khả năng thu, chi NSNN trong ngắn hạn và dài hạn để đảm
bảo tính ổn định của chính sách tài khóa và việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội.
3. Bội chi ngân sách nhà nước
3.1. Khái niệm bội chi ngân sách nhà nước
Bội chi NSNN (hay còn gọi là thâm hụt NSNN) là tình trạng chi NSNN vượt
quá thu NSNN trong một năm tài khóa, là hiện tượng NSNN không cân đối thể hiện
trong sự thiếu hụt giữa cung và cầu về nguồn lực tài chính của nhà nước.
3.2. Đo lường bội chi ngân sách nhà nước
Về mặt kỹ thuật, NSNN có bội chi hay không, bội chi nhiều hay ít, còn tùy
thuộc vào cách đo lường bội chi NSNN. Ở mỗi nước có thể tồn tại một cách hiểu về
bội chi NSNN khác nhau. Có ba yếu tố ảnh hưởng đến kết quả đo lường bội chi
NSNN: (1) phạm vi tính bội chi NSNN; (2) việc xác định các khoản thu, chi trong cân
đối NSNN; (3) thời gian ghi nhận thu – chi NSNN.
(1) Phạm vi tính bội chi ngân sách nhà nước
- Bội chi ngân sách toàn diện
Bội chi ngân sách toàn diện tính trên phạm vi toàn bộ khu vực công. Theo
World Bank, khu vực công bao gồm:
• Chính phủ
• Các cấp chính quyền địa phương
• Ngân hàng trung ương
• Các các tổ chức thuộc sở hữu Nhà nước (trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước),
nguồn vốn hoạt động của nó do ngân sách nhà nước quyết định và trong trường
hợp vỡ nợ nhà nước phải trả nợ thay cho các tổ chức đó.
Như vậy, khi các thể chế trong khu vực công vỡ nợ, hoặc không vỡ nợ nhưng
khi cần thanh toán trong trường hợp muốn tái cấu trúc lại các thể chế này, thì trách
nhiệm thanh toán cuối cùng thuộc về chính phủ. Và khi đó, khoản thanh toán nợ này
nếu thực tế phát sinh trong năm thì được tính vào chi NSNN của năm thanh toán. Từ
đó, bội chi ngân sách toàn diện bao gồm mức bội chi được xác định cho toàn bộ khu
vực công. Đây là thước đo rộng nhất để xác định mức bội chi.
- Bội chi ngân sách chính phủ
Khác với WB, IMF lại cho rằng để phân biệt chính sách tài khóa với chính sách
tiền tệ, đồng thời làm cơ sở đối chiếu giữa thống kê tài chính tiền tệ với thống kê tài
chính chính phủ thì phạm vi xác định bội chi chỉ nên giới hạn trong khu vực chính
phủ. Theo sổ tay Thống kê Tài chính Chính phủ của IMF, khái niệm chính phủ gồm tất
cả các cấp chính quyền mà không bao gồm hoạt động ngân hàng trung ương, cho dù nó
có trực thuộc chính phủ hay không. Tại mỗi cấp chính quyền, bên cạnh quỹ NSNN còn
có các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách và quỹ hoạt động bảo hiểm xã hội. Các
quỹ này được trợ cấp một phần lớn từ NSNN.
Do vậy, bội chi ngân sách chính phủ theo nghĩa rộng là số bội chi của các cấp
chính quyền với các hoạt động với sự hỗ trợ hoặc bao cấp của NSNN CHO tất cả các
quỹ nói trên. Nhưng nếu hiểu theo nghĩa hẹp, bội chi ngân sách chính phủ chỉ bao gồm
bội chi của các cấp chính quyền liên quan đến hoạt động của quỹ ngân sách nhà nước
mà thôi.
- Bội chi ngân sách trung ương
Một số quốc gia khi tính bội chi NSNN chỉ tính bội chi liên quan đến hoạt động
NSNN do chính quyền trung ương trực tiếp thực hiện. Đi đôi với quan điểm này là việc
không cho phép ngân sách địa phương bội chi. Cách xác định phạm vi tính bội chi
ngân sách hẹp như vậy là nhằm thiết lập kỷ luật tài chính tổng thể trong điều kiện năng
lực quản lý có nhiều hạn chế. Luật Ngân sách nhà nước Việt Nam năm 2002 hiểu theo
nghĩa này (xem khoản 3 điều 8 Luật NSNN 2002).
(2) Xác định các khoản thu, chi trong cân đối ngân sách nhà nước
- Trên thực tế, tùy thuộc vào mục đích chính trị, mục tiêu của chính sách tài
khóa… mỗi nền kinh tế sẽ có những quan điểm khác nhau về vấn đề này.
Chẳng hạn, khoản vay nợ qua phát hành trái phiếu và viện trợ (nếu có) có nên
ghi vào cân đối NSNN hay không thì câu trả lời đôi khi là khác nhau giữa các quốc gia.
Nhật Bản ghi các khoản này vào số thu NSNN hàng năm, trong khi Mỹ thì đưa các
khoản này để xử lý bội chi NSNN. Ở Việt Nam, Luật Ngân sách nhà nước năm 2002
quy định tính các khoản viện trợ không hoàn lại vào thu ngân nhưng không tính các
khoản vay nợ kể cả trong và ngoài nước.
Việc ghi các khoản này vào số thu NSNN hàng năm để cân đối NSNN nổi lên
hai vấn đề cần xem xét: (i) nếu đưa các khoản này vào cân đối NSNN, thì sẽ làm cho
mức bội chi NSNN trở nên nhỏ hơn. Ở mức độ nào đó, đây cũng là cách để các nhà
chính trị vẽ lại bức tranh cân đối NSNN tốt hơn, qua đó không làm mất đi tín nhiệm
đối với cử tri về năng lực quản lý chính phủ; (ii) tuy vậy, việc đưa khoản này vào cân
đối NSNN sẽ làm gia tăng rủi ro tiềm ẩn đối với cân đối NSNN, tính ổn định của
NSNN không cao. Và gánh nặng nợ là mối đe dọa lớn đến tính ổn định của nền tài
chính quốc gia trong dài hạn.
- Ngoài ra, mục đích sử dụng của các báo cáo về bội chi NSNN cũng ảnh hưởng
đến việc quyết định các khoản thu, chi trong cân đối NSNN
Nếu báo cáo được sử dụng cho mục đích đánh giá sự tích lũy của chính phủ cho
nhu cầu đầu tư phát triển thì bội chi NSNN là bội chi ngân sách vãng lai. Là chênh lệch
của số thu, chi thường xuyên.
Bội chi ngân sách vãng lai = Chi thường xuyên – Thu thường xuyên
Nếu báo cáo được sử dụng cho mục đích đánh giá tình hình ngân sách tổng thể
của nhà nước và tác động của nó đến môi trường kinh tế vĩ mô (tình hình lưu thông
tiền tệ, cầu trong nước và cán cân thanh toán quốc tế) thì bội chi NSNN là bội chi ngân
sách qui ước (bội chi ngân sách thông thường).
Bội chi ngân sách qui ước = Thu thường xuyên và viện trợ không hoàn lại –
tổng chi (bao gồm cả cho vay thuần)
Trong đó: Cho vay thuần = Số cho vay ra – Số thu hồi nợ gốc
Tuy nhiên, cách tính này chưa cho phép phân tích sự tác động của bội chi
NSNN đến tổng cầu cũng như sự phân bổ nguồn lực và tái phân phối thu nhập trong
nền kinh tế. Cùng một mức bội chi như nhau nhưng nếu cơ cấu thu, chi và nguồn bù
đắp bội chi khác nhau thì tác động hoàn toàn khác nhau.
IMF khuyến cáo rằng khi phân tích ngân sách để lập dự toán thì chỉ nên coi các
nguồn viện trợ, kể cả viện trợ không hoàn lại, là nguồn bù đắp thâm hụt như các khoản
vay nợ. Vì các khoản viện trợ thường không có kế hoạch chắc chắn, không ổn định,
nếu lập dự toán chi ngân sách có tính đến các khoản viện trợ có thể sẽ phải điều chỉnh
chi NSNN trong quá trình thực hiện, gây những tác động tiêu cực đến hoạt động ngân
sách.
Nếu báo cáo được sử dụng cho mục đích đánh giá tính bền vững tài khóa thì bội
chi ngân sách căn bản sẽ thích hợp.
Bội chi ngân sách căn bản = Bội chi ngân sách qui ước – Chi trả lãi
Với các tính này, nếu chính phủ có các quyết định thu – chi làm giảm bội chi ngân sách
căn bản, thì số chi cho hoạt động của chính phủ trong cung cấp hàng hóa, dịch vụ công
sẽ ít đi. Nếu chính phủ mở rộng các nhu cầu tài chính của mình và làm tăng chi trả lãi
thì có nghĩa là chính phủ phải giảm các cơ hội chi thường xuyên không bắt buộc cũng
như chi đầu tư để có thể cải thiện hệ thống giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng
Trong trường hợp muốn so sánh với quốc gia khác trong bối cảnh mức độ lạm
phát của hai quốc gia là khác nhau, hoặc khắc phục tình trạng bội chi bị đánh giá quá
cao do lạm phát (đặc biệt là đối với những nước có mức lạm phát và nợ công cao) thì
bội chi NSNN là bội chi ngân sách nghiệp vụ. Bởi vì, lạm phát sẽ làm giảm giá trị thực
số dư nợ danh nghĩa của khu vực công, khi chính phủ trả lãi tiền vay thì một phần
trong đó mang tính chất hoàn lại tiền gốc đã bị trượt giá theo năm tháng cho chủ thể
cho vay. Khi tính bội chi NSNN nếu phần này không được loại ra thì mức bội chi thực
chất đã bị đánh giá cao hơn mức bội chi thực sự.
Bội chi ngân sách nghiệp vụ = Bội chi ngân sách qui ước – trả lãi do lạm phát =
Bội chi ngân sách căn bản + trả lãi thực
(trả lãi danh nghĩa = trả lãi do lạm phát+ trả lãi thực)
Theo thông lệ quốc tế, thu trong cân đối NSNN bao gồm các khoản thu vào quỹ
NSNN mà khoản thu đó không kèm theo, không làm phát sinh nghĩa vụ hoàn trả trực
tiếp. Chi trong cân đối NSNN là các khoản chi ra từ NSNN được đảm bảo bằng các
nguồn thu NSNN trong cân đối. Điều này cũng có nghĩa là những khoản chi của nhà
nước nhưng do các nguồn khác đảm nhiệm thì không tính vào chi trong cân đối NSNN.
Như vậy, theo thông lệ quốc tế, thu trong cân đối NSNN bao gồm: các khoản thu thuế,
phí và các khoản thu khác (kể cả viện trợ không hoàn lại) mà không bao gồm các
khoản vay trong và ngoài nước. Chi trong cân đối NSNN bao gồm chi đầu tư phát
triển, chi thường xuyên, các khoản chi khác, chi trả lãi vay mà không bao gồm chi trả
nợ gốc tiền vay. Chi trả lãi tiền vay cần được xếp vào chi NSNN vì nó là hệ quả của
việc điều hành chính sách NSNN có bội chi và được chính nguồn thu trong cân đối
NSNN đảm bảo.
Ở Việt Nam hiện nay, cách tính bội chi khác với thông lệ quốc tế này ở điểm là
Việt Nam tính vào chi NSNN tất cả các khoản chi trả nợ cả gốc và lãi. Cách tính này
cho kết quả định lượng bội chi cao hơn so với cách tính không bao gồm trả nợ gốc
nhưng thuận tiện khi nhận thấy được số bội chi của một năm chính bằng các khoản vay
bù đắp bội chi trong năm đó.
(3) Xác định thời gian ghi nhận thu, chi ngân sách nhà nước
Việc phân định thời gian ghi nhận thu, chi NSNN trong cân đối hợp lý sẽ giúp
cho chính phủ tổng kết và đánh giá tình hình tài chính của quốc gia, qua đó có biện
pháp điều chỉnh kịp thời, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính
công. Trên thực tế, xác định thời gian ghi nhận thu – chi NSNN tùy thuộc vào quy tắc
kế toán chính phủ được áp dụng là kế toán thực thu - thực chi hay kế toán dồn tích. Và
chính qui tắc kế toán được áp dụng sẽ ảnh hưởng đến kết quả đo lường bội chi NSNN
trong từng tài khóa. Với kế toán thực thu – thực chi, nghiệp vụ kinh tế phát sinh chỉ
được ghi chép vào sổ sách kế toán khi thực sự có phát sinh thu chi tiền tệ. Trong khi
đó, với kế toán dồn tích thì bất kỳ nghiệp vụ kinh tế nào phát sinh cũng phải được ghi
nhận đúng với bản chất của vấn đề.
Tóm lại xác định phạm vi, xác định các khoản thu, chi trong cân đối khi đo
lường mức bội chi NSNN và qui tắc kế toán chính phủ nào được sử dụng sẽ phụ thuộc
vào:
• Việc xác định vai trò của nhà nước;
• Mục đích chính trị và mục đích sử dụng báo cáo;
• Mục tiêu của chính sách tài khóa;
• Năng lực quản lý của các cấp chính quyền;
• Bối cảnh kinh tế – xã hội.
3.3. Nguyên nhân bội chi ngân sách nhà nước
3.3.1. Các nguyên nhân khách quan:
Do kinh tế suy thoái mang tính chu kỳ. Kinh tế suy thoái thì sẽ làm cho nguồn
thu NSNN sút giảm, nhu cầu chi tiêu gia tăng (trợ cấp xã hội, những khoản chi để phục
hồi nền kinh tế), kết quả NSNN có thể bị bội chi.
Thiên tai, tình hình bất ổn của an ninh thế giới. Tình hình bất ổn của an ninh thế
giới và diễn biến phức tạp của thiên tai sẽ làm gia tăng nhu cầu chi cho quốc phòng và
an ninh trật tự xã hội, gia tăng nhu cầu chi NSNN để khắc phục hậu quả của thiên tai.
3.3.2. Các nguyên nhân chủ quan:
Do quản lý và điều hành NSNN bất hợp lý. Quản lý và điều hành NSNN bất
hợp lý được thể hiện qua việc đánh giá và khai thác nguồn thu chưa tốt; phân bổ và sử
dụng NSNN còn nhiều bất cập, gây thất thoát, lãng phí nguồn lực tài chính nhà nước;
phân cấp quản lý NSNN chưa khuyến khích địa phương nỗ lực trong khai thác nguồn
thu và phân bổ chi tiêu hiệu quả. Kết quả là thu NSNN không đủ để trang trải nhu cầu
chi tiêu.
Do nhà nước chủ động sử dụng bội chi như một công cụ của chính sách tài khóa
để kích cầu, khắc phục tình trạng suy thoái của nền kinh tế.
Do cách đo lường bội chi.
3.4. Tác động của bội chi ngân sách đến nền kinh tế vĩ mô
3.4.1. Ảnh hưởng đến tổng cầu nền kinh tế
Xuất phát từ đẳng thức kinh tế xác định tổng sản phẩm quốc nội
GDP = C + I + G + NX
Trong đó GDP là tổng sản phẩm quốc nội, C là tiêu dùng tư nhân, I là tổng đầu
tư, G là chi tiêu chính phủ, NX là xuất khẩu ròng
Đưa thêm biến số thuế T vào đằng thức ta có:
(GDP – C – T) + (T – G) = I
S = (GDP – C – T)
S + (T – G) = I
Với S là tiết kiệm tư nhân, (T – G) là tiết kiệm chính phủ, cũng chính là chênh
lệch giữa thu ngân sách và chi ngân sách. Trường hợp (T – G) = 0 tức NSNN cân bằng,
trường hợp (T – G) > 0 NSNN có thặng dư, trường hợp (T – G) < 0 NSNN bội chi.
Trong bối cảnh NSNN bội chi, chính phủ phải tìm cách bù đắp bội chi bằng cách vay
trong nước hoặc nước ngoài. Vay trong nước làm cho tiết kiệm tư nhân giảm, tổng đầu
tư giảm; để duy tri được mức tổng đầu tư chính phủ phải lựa chọn phương án đi vay
nước ngoài. Mỗi khi chính phủ chi tiêu quá một đồng vượt số thu ngân sách, buộc phải
tài trợ bằng cách tăng nợ công một đồng.
3.4.2. Ảnh hưởng lạm phát
Về cơ bản, hầu hết chính phủ các nước đều dùng các biện pháp sau để khắc
phục bội chi NSNN: vay trong nước, vay nước ngoài hoặc phát hành tiền. Tùy từng
điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà các nguồn bù đắp bội chi được sử dụng riêng rẽ hay
kết hợp. Từ đó cũng gây ra tác động lên nền kinh tế khác nhau.
Khi chính phủ sử dụng giải pháp bù đắp bội chi NSNN bằng cách phát hành trái
phiếu (kể cả phát hành trong nước và phát hành ra nước ngoài), thi tất yếu chính phủ
phải trả tiền nợ gốc và lãi trái phiếu trong tương lai đồng thời gây áp lực lên xã hội
bằng việc tăng thuế. Tuy nhiên bằng cách này, bội chi NSNN sẽ không gây lạm phát và
đặc biệt trong trường hợp bội chi được tài trợ cho các dự án đầu tư sinh lợi thì nó lại là
động lực cho sự phát triển của nên kinh tế trong dài hạn.
Khi chính phủ sử dụng giải pháp bù đắp bội chi NSNN bằng việc phát hành tiền,
hành động này ngay lập tức làm cho lương tiền cung ứng trong lưu thông tăng. Cung
tiền tăng là một yếu tố quan trọng làm tăng tổng cầu. Trong bối cảnh suy thoái kinh tế
tăng cung tiền có tác dụng kích thích nền kinh tế, thúc đẩy đầu tư tăng tổng sản phẩm
tiến tới mức tiềm năng, ảnh hưởng lạm phát là tối thiếu. Tuy nhiên duy trì bội chi kéo
dài trong thời kỳ kinh tế tăng trường phát hành tiền sẽ gây ra lạm phát cao, rất nguy
hại.
3.4.3. Nợ quốc gia và những bất ổn trong nền kinh tế
Quy mô nợ công của Chính phủ tùy thuộc vào số nợ vay là để tài trợ cho tiêu
dùng hay đầu tư và hiệu quả của việc đầu tư đó đến đâu. Nếu chính phủ chấp nhận bội
chi để tài trọ cho các dự án có hiệu quả, có khả năng sinh lời trong dài hạn, thì chính
lợi tức từ dự án lại tạo ra và làm tăng nguồn thu trong dài hạn cho ngân sách nhà nước,
giúp NSNN trả được gốc và lãi cho các khoản vay tài trợ bội chi trong quá khứ.
Trường hợp bội chi NSNN được sử dụng cho mục đích tiêu dùng tức thời thì phần lớn
ảnh hưởng của nó chỉ tác động đến tổng cầu trong ngắn hạn (tại thời điểm bội chi xảy
ra), và trong dài hạn nó không tai ra một nguồn thu tiềm năng cho ngân sách mà chính
nó làm nặng nề hơn khoản nợ công trong tương lai.
3.4.4. Thâm hụt cán cân thương mại
Bù đắp bội chi NSNN bằng các tăng vay nợ góp phần làm tăng lãi suât, sẽ ảnh
hưởng bất lợi đến cán cân thanh toán thương mại quốc tế. Lãi suất thị trường của nước
này tăng lên cao so với các đồng tiền các nước khác trên thế giới thì người nước ngoài
sẽ tìm kiếm đồng nội tệ của nước có bội chi để mua các chứng khoán chính phủ và các
tài sản tài chính khác. Dẫn đến tình trạng nhập siêu ở nước có ngân sách bội chi lớn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét