Thứ Hai, 17 tháng 2, 2014

494 Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn


5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN


Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN
BIDV Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
CBTD Cán bộ tín dụng
CIC Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước
CNTB Chủ nghĩa Tư bản
CTCP Công ty cổ phần
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
DNTN Doanh nghiệp tư nhân
DNVVL Doanh nghiệp vừa và lớn
DNN Doanh nghiệp nhỏ
DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ
EIB Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam
FPT Công ty cổ phần Viễn thông FPT
HĐQT Hội đồng quản trị
IFC Công ty tài chính quốc tế
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
KCX, KCN Khu chế xuất, Khu công nghiệp
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMQD Ngân hàng thương mại quốc doanh
NHNN Ngân hàng Nhà nước
SCB Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn
TCKT Tổ chức kinh tế
TMCP Thương mại cổ phần
TCTD Tổ chức tín dụng
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
Tp.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
VCB Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam
VND Việt Nam đồng
WTO Tổ chức thương mại thế giới
WB Ngân hàng Thế Giới



6



DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU:


Bảng 2.1: Sự tăng trưởng Vốn điều lệ của SCB qua các năm Phụ lục 1
Bảng 2.2: Tăng trưởng nguồn vốn huy động Phụ lục 1
Bảng 2.3: Tổng dư nợ tín dụng của SCB từ
năm 2003 – tháng 07/2007 Phụ lục 1
Bảng 2.4: Thu nhập từ hoạt động thanh toán quốc tế và
kinh doanh ngoại hối của SCB Phụ lục 1
Bảng 2.5: Kết quả kinh doanh của SCB từ năm 2003 – 07/2007 Phụ lục 1
Bảng 2.6: Cơ cấu tín dụng phân theo thời hạn Phụ lục 1
Bảng 2.7: Cơ cấu tín dụng phân theo đối tượng khách hàng Phụ lục 1
Bảng 2.8: Cơ cấu tín dụng phân theo ngành kinh tế Phụ lục 1
Bảng 2.9: Tỷ lệ cho vay phân theo thời hạn của một số
NHTMCP trên địa bàn Tp.HCM đến 31/07/2007 Phụ lục 1
Bảng 2.10: Cơ cấu nợ quá hạn của SCB qua các năm 38
Bảng 2.11: Nợ quá hạn của một số NHTMCP tính đến
tháng 08/2007 39

















7

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ - BIỂU ĐỒ


Sơ đồ 1.1 : Sơ đồ tín dụng 1
Biểu đồ 2.1: Tốc độ phát triển mạng lưới của SCB qua các năm 26
Biểu đồ 2.2: Tốc độ phát triển nguồn nhân lực qua các năm 27
Biểu đồ 2.3: Biểu đồ thể hiện sự tăng trưởng nguồn vốn huy động 28
Biểu đồ 2.4: Biểu đồ thể hiện sự tăng trưởng dư nợ tín dụng 29
Biểu đồ 2.5: Biểu đồ thể hiện sự tăng trưởng dư nợ hoạt động đầu tư 30
Biểu đồ 2.6: Lợi nhuận trước thuế 32
Biểu đồ 2.7: Cơ cấu tín dụng phân theo thời hạn 33
Biểu đồ 2.8: Cơ cấu tín dụng phân theo đối tượng khách hàng 34
Biểu đồ 2.9: Cho vay và huy động của SCB 35
Biểu đồ 2.10: Cơ cấu cán bộ công nhân viên theo giới tính 47
Biểu đồ 2.11: Cơ cấu cán bộ công nhân viên theo trình độ chuyên môn 47
























8

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Ngân hàng là một trong những kênh huy động và điều hòa nguồn vốn quan
trọng và ngày càng trở một định chế tài chính không thể thiếu trong nền kinh
tế thị trường.
Trong bối cảnh thị trường tài chính Việt Nam hiện nay, mặc dù các ngân
hàng đang gia tăng nguồn thu từ dịch vụ là nguồn thu phi rủi ro, thì hoạt
động tín dụng vẫn là lĩnh vực kinh doanh đem lại nguồn thu lớn nhất cho các
ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương mại có quy mô vừa và nhỏ.
Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) là một ngân hàng bậc trung, vừa thoát ra
khỏi nguy cơ phá sản vào năm 2003 khi mà khoản lỗ lũy kế lên đến 23 tỷ
đồng và phải dùng vốn điều lệ để cấn trừ lỗ. Đến nay, hoạt động kinh doanh
của SCB đang phát triển vượt bậc, tất cả các mặt hoạt động đều đang được
chấn chỉnh để ngày một hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, cũng giống như các ngân
hàng thương mại Việt Nam khác, tín dụng vẫn là hoạt động đem lại nguồn
thu chính cho SCB.
Trong tín dụng không thể loại trừ hoàn toàn các rủi ro tiềm ẩn mà chỉ có thể
nhận dạng và kiểm soát chúng một cách chặt chẽ để hạn chế đến mức thấp
nhất tổn thất khi rủi ro xảy ra.
Do đó đề tài “NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN” được chọn làm luận văn nghiên
cứu, nhằm đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng tại SCB với những mặt
đạt được và nguyên nhân dẫn đến những yếu kém trong hoạt động tín dụng
để làm cơ sở đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín
dụng tại Ngân hàng này.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Luận văn nghiên cứu nhằm đạt ba mục tiêu sau:
Thứ nhất: Làm rỏ về mặt lý luận: Khái niệm về chất lượng tín dụng, các
nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tín dụng, và ý nghĩa của
việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.

9
Thứ hai: Phản ánh và đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng
TMCP Sài Gòn, thành quả đạt được và những tồn tại cần khắc phục.
Thứ ba: Trên cơ sở những tồn tại và định hướng phát triển trong tương lai,
đề ra những giải pháp khả thi nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân
hàng TMCP Sài Gòn trong quá trình cạnh tranh để hội nhập.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng của hoạt động tín dụng và việc
nâng cao chất lượng hoạt động này.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tại hoạt động tín dụng của NHTMCP Sài
Gòn từ năm 2003 đến nay.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Đề tài được nghiên cứu bằng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử và kết hợp với phương pháp tổng hợp, so sánh nhằm làm nổi bật vấn
đề và rút ra những giải pháp phù hợp với tình hình thực tế.
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN:
− Góp thêm vào những lý luận về tín dụng, lịch sữ phát triển của quan hệ
tín dụng, chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại và
các nhân tố tác động đến hoạt động tín dụng.
− Đánh giá được những tồn tại trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng
TMCP Sài Gòn, một ngân hàng bậc trung của Việt Nam.
− Đề xuất các giải pháp khắc phục những tồn tại này.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài kết cấu bởi ba chương với nhiều bảng
biểu, số liệu minh họa có liên quan.
Chương 1: Tín dụng và chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại
trong thời kỳ hội nhập.
Chương 2: Thực trạng về chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân
hàng TMCP Sài Gòn.




10
CHƯƠNG 1 :
TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP


1.1
TÍN DỤNG:
1.1.1-
Khái niệm và đặc điểm của tín dụng:
Tín dụng là một phạm trù kinh tế đã tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội.
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì tín dụng là sự vay mượn trong đó hai chủ thể người đi
vay và người cho vay sẽ thỏa thuận một thời hạn nợ và mức lãi cụ thể. Nếu hiểu
theo nghĩa rộng thì tín dụng là sự vận động của các nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi
thiếu.
Từ tín dụng được sử dụng ngày nay (tiếng Anh: Credit; Pháp: Crédit) xuất phát
từ gốc la tinh Creditum là lòng tin, là sự tín nhiệm. Ở đây muốn nói về niềm tin mà
người cho vay hướng về người đi vay khi đem tiền bạc, tài sản ra cho vay, họ phải
có cơ sở tin rằng người đi vay sẽ hoàn trả nợ đúng hạn. Nói cách khác, để quan hệ
tín dụng tồn tại đòi hỏi phải tạo lập đuợc niềm tin và đây là cơ sở quan trọng cho
quan hệ tín dụng hình thành. Như vậy có thể đưa ra khái niệm tổng quát về tín dụng
như sau: Tín dụng là một quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả (cả
vốn lẫn lãi) sau một thời hạn nhất định.
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ tín dụng:
Người cho vay Người đi vay
Vốn (1)
Vốn + lãi (2)






11
Từ khái niệm và sơ đồ 1.1 cho thấy trong quan hệ tín dụng người cho vay chỉ
nhượng lại quyền sử dụng vốn sang người đi vay trong một thời hạn nhất định. Tuy
nhiên người đi vay không có quyền sở hữu vốn ấy nên phải hoàn trả lại cho người
cho vay khi đến thời hạn đã thỏa thuận. Sự hoàn trả này không chỉ là sự bảo tồn về
mặt giá trị mà vốn tín dụng còn được tăng thêm dưới hình thức lợi tức. Ở đây, quá
trình vận động mang tính chất hoàn trả của tín dụng là biểu hiện đặc trưng nhất sự
khác biệt giữa quan hệ tín dụng và các mối quan hệ kinh tế khác.
Quan hệ tín dụng dù vận động ở phương thức sản xuất nào, hình thái giá trị
vốn cho vay là hàng hóa hay tiền tệ thì tín dụng cũng mang ba đặc điểm cơ bản:

Chỉ thay đổi quyền sự dụng mà không thay đổi quyền sở hữu vốn tín
dụng.

Có thời hạn tín dụng được xác định do thỏa thuận giữa người cho vay và
người đi vay.

Người sở hữu vốn tín dụng được nhận một phần thu nhập dưới hình thức
lợi tức.
1.1.2-
Lịch sử phát triển quan hệ tín dụng :
1.1.2.1. Giai đoạn đầu hình thành:
Trong thời kỳ tan rã của chế độ Cộng sản nguyên thủy cùng với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, sự phân công lao động xã hội được mở rộng thì quan hệ
H – T cũng được hình thành và bước đầu phát triển tiền tệ ngày càng thể hiện đầy
đủ hơn các chức năng của mình.
Đây chính là những điều kiện tiền đề làm nảy sinh những quan hệ tín dụng.
Trong thời kỳ này song song với sự hình thành những gia đình cá thể là sự thay đổi
về cách thức phân phối thu nhập của xã hội. Giờ đây của cải vật chất không còn
chia đều cho mỗi thành viên trong công xã như trước kia mà có xu hướng:

Tập trung giá trị vật chất và tiền tệ vào trong tay một thiểu số người hay
một vài dòng họ lớn nắm trong tay sức mạnh về tư liệu sản xuất.

12

Sự bần cùng thiếu thốn thường xuyên về vật phẩm tiêu dùng, tư liệu lao
động của đại bộ phận các gia đình khác.
Như vậy sự khác nhau càng lớn về mức độ thu nhập dẫn đến sự phân hóa
giai cấp trong xã hội bấy giờ thành kẻ giàu người nghèo. Với thực trạng đó để có
tiền đóng thuế, nộp tô để bù đắp những thiếu hụt trong nếp sinh hoạt thường ngày
những người nghèo chẳng còn con đường nào khác hơn là phải vay mượn ở những
người giàu bằng tiền hoặc hiện vật và thế chấp bằng tư liệu sản xuất và cao hơn nữa
bằng cả bản thân người đi vay.
Quan hệ tín dụng ra đời trong giai đoạn này là
tín dụng nặng lãi. Đây là hình
thức tín dụng xuất hiện sớm nhất trong lịch sử phát triển quan hệ tín dụng, đã phát
triển mạnh mẽ và giữ vị trí chủ yếu trong giai đoạn chế độ chiếm hữu nô lệ và chế
độ phong kiến, nơi mà nền sản xuất nhỏ giữ địa vị độc tôn.
Trong quan hệ tín dụng nặng lãi, người đi vay đa số là những người sản xuất
nhỏ. Họ đi vay để bù đắp những thiếu hụt bất trắc xảy ra trong cuộc sống. Người
cho vay là những địa chủ, phú nông, tầng lớp quan lại hoặc tăng lữ.
Ở giai đoạn này, với hoàn cảnh kinh tế - xã hội khó khăn, đời sống những
người sản xuất nhỏ phải gánh chịu nhiều rủi ro và đứng trước yêu cầu bứt thiết của
con nợ thì chủ nợ chẳng dại gì mà không nâng lãi suất lên cao ngất. Có thể nói nền
sản xuất nhỏ là mảnh đất tốt để tín dụng nặng lãi tồn tại và phát triển.
Mặt khác với lãi suất cho vay rất cao do cung nhỏ hơn cầu nên người đi vay
chỉ dám sử dụng vào mục đích tiêu dùng phi sản xuất.
Do đó, trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển dưới lớp áo cho vay nặng
lãi tín dụng không phải là nhân tố kích thích phát triển sản xuất và lưu thông hàng
hóa.
1.1.2.2. Giai đoạn từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 18:
Đến khi CNTB ra đời, quá trình tái sản xuất giản đơn với qui mô hoạt động
nhỏ hẹp được thay thế dần bằng quá trình tái sản xuất mở rộng với qui mô lớn mạnh

13
cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Với thực tại khách quan đó các nhà tư bản rất cần bổ
sung thêm vốn nhưng họ không thể sử dụng tiền vay nặng lãi để đáp ứng. Trong
giai đoạn đầu do chưa đủ sức thủ tiêu ngay tín dụng nặng lãi nên họ đã phải nhờ đến
nhà nước can thiệp bằng pháp luật và nhờ giáo hội để tuyên truyền thuyết phục các
tổ chức kinh doanh nặng lãi giảm lãi suất. Tuy nhiên những biện pháp này không
đạt hiệu quả cao. Do đó, khi giai cấp tư sản đã phát triển đủ sức họ góp vốn lại và
cho nhau vay với lãi suất vừa phải. Nói cách khác, họ đã thiết lập quan hệ tín dụng
cho riêng mình và tước đoạt vai trò độc quyền tín dụng của những người cho vay
nặng lãi và cũng là thời điểm mở đầu cho chặng đường phát triển mới ngày càng
lớn mạnh của hệ thống tín dụng phục vụ đắc lực cho quá trình tiến bộ xã hội.
Quan hệ tín dụng mới này được gọi là
tín dụng thương mại. Đây là quan hệ
tín dụng giữa các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh, mua bán chịu hàng hóa với nhau.
Việc mua bán chịu hàng hóa giữa các nhà tư bản có nghĩa là nhà tư bản này đã
cho nhà tư bản kia vay một lượng giá trị tư bản chứa đựng trong hàng hóa đó, cũng
giống như cho vay bằng tiền tệ. Bởi vậy, người cho vay đòi hỏi phải được trả lợi
tức. Giá hàng hóa bán chịu phải cao hơn giá hàng hóa trả tiền ngay, trong đó đã bao
gồm một khoản lợi tức nhất định. Tuy nhiên mục đích của việc bán chịu trong tín
dụng thương mại không phải để thu lợi tức mà chủ yếu là để thực hiện giá trị của
hàng hóa.
Sự ra đời của tín dụng thương mại bắt nguồn từ tính tất yếu khách quan của
quá trình tái sản xuất. Do chu kỳ sản xuất và luân chuyển vốn của các nhà tư bản
thường có sự tách biệt nhất định, từ đó sẽ dẫn tới hiện tượng trong cùng một thời
điểm, một số nhà tư bản đang có sẵn một lượng hàng cần bán, một số nhà tư bản
khác lại đang cần mua những hàng hóa ấy, nhưng do chưa tiêu thụ được hàng hóa
của mình nên không có đủ tiền mặt để thanh toán ngay. Trong trường hợp này, trên
cơ sở quen biết, tín nhiệm nhau họ có thể thỏa thuận một quan hệ vay mượn. Như
vậy, người bán có thể giải quyết nhanh lượng hàng của mình, giảm bớt chi phí bảo

14
quản hàng hóa. Ngược lại, người mua mặc dù chưa đủ tiền nhưng vẫn có được hàng
hóa đưa vào chu kỳ sản xuất mới.
Trong tín dụng thương mại, tiền chỉ là phương tiện thanh toán, nghĩa là hàng
hóa được bán không lấy tiền ngay mà lấy một tờ khế ước hẹn đến một kỳ hạn nào
đó sẽ trả tiền. Để cho đơn giản, tất cả các khế ước đó được gọi chung một loại là kỳ
phiếu, khi chưa đến kỳ hạn thanh toán có thể dùng để mua hàng hóa, thanh toán các
khoản nợ bằng cách sang tên kỳ phiếu. Khi cần thiết, người chủ kỳ phiếu có thể đến
ngân hàng thực hiện việc chiết khấu kỳ phiếu để lấy tiền mặt trước thời hạn. Khi
đến hạn thanh toán, ngân hàng sẽ thu nợ ở người thụ lệnh. Ngân hàng có thể dùng
kỳ phiếu đó để cho vay hoặc dựa vào đó để phát hành giấy bạc ngân hàng. Như vậy,
kỳ phiếu thương mại có thể dùng như tiền tệ trong chức năng phương tiện lưu
thông, phương tiện thanh toán. Tín dụng thương mại, lưu thông kỳ phiếu tạo điều
kiện cho lưu thông hàng hóa, cho sự vận động và phát triển của nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa.
Mỗi nhà tư bản trong quan hệ tín dụng thương mại vừa là người cho vay vừa là
người đi vay. Sự vận động của tín dụng thương mại gắn liền với sự vận động của
hàng hóa, vì đối tượng của tín dụng thương mại là hàng hóa.
Mặc dù tín dụng thương mại có thể được thực hiện nhanh chóng, đáp ứng kịp
thời nhu cầu tiêu thụ hàng hóa, đẩy nhanh vòng quay vốn và nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh. Nhưng nó chỉ được thực hiện giữa các doanh nghiệp quen biết, tín
nhiệm lẫn nhau; quy mô tín dụng bị giới hạn trong khả năng vốn hàng hóa mà họ
có; cũng như điều kiện kinh doanh và chu kỳ sản xuất giữa người mua và người bán
không phù hợp.
Do đó, khi quy mô của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được mở rộng
hơn đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn hơn thì tín dụng thương mại không đáp ứng được
đầy đủ nhu cầu vốn. Khi đó, tại các nước tư bản, ngân hàng tư bản được thành lập
dựa trên cơ sở các hàng vàng và các thương nhân chuyên buôn tiền đúc. Các ngân
hàng này ngày càng phát triển mạnh mẽ và cho ra đời một quan hệ tín dụng mới là

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét